Chương 2
Vì xăng thì rẻ hơn nhà nghỉ cùi bắp một chút, nên tôi rất thường lái xe đơn độc trên đường vào những giờ tối muộn. Lúc nào cũng thế, tôi cứ tự nhủ rồi mình sẽ ngủ sau, như thể trước mắt tôi là giấc ngủ đông dài đang chực ập đến. Sự thật là tôi chợp mắt rất nhiều, nhưng lại hiếm khi ngủ, và chuyện này chắc khó lòng thay đổi được. Tôi đã gánh lấy sứ mệnh cứu mạng những con người vô tội đang mục rữa trong tù, trong khi những kẻ cưỡng hiếp giết người thực sự vẫn nhởn nhơ.
Duke Russell bị kết tội ở một thị trấn mà tâm thức người ta chỉ như ao hồ tù đọng, nơi mà phân nửa bồi thẩm đoàn còn đọc chưa trôi chảy, và dễ dàng bị dắt mũi bởi hai gã chuyên gia tự phong khoác lác mà Chad Falwright đưa lên bục đối chất. Người đầu tiên là một nha sĩ tỉnh lẻ đã nghỉ hưu ở Wyoming, và làm thế nào ông ta lại đến tận Verona, Alabama, lại là một chuyện khác nữa. Với uy thế ghê gớm, bộ vest chỉn chu, và vốn từ cao ngất, ông ta làm chứng rằng ba dấu răng trên tay của Emily Broone là của Duke. Gã hề đó là cái máy làm chứng trên khắp cả nước, lúc nào cũng cho bên công tố, và luôn nhận thù lao hậu hĩnh. Cái đầu bệnh hoạn của lão nghĩ rằng một vụ cưỡng hiếp không đủ mức bạo lực nếu thiếu vài dấu răng của kẻ thủ ác hằn trên người nạn nhân.
Một giả thuyết vô căn cứ và lố bịch như thế, đáng ra phải bị vạch trần trong phiên đối chất, nhưng có lẽ lúc đó luật sư của Duke hoặc còn say rượu hoặc đang ngủ gật mất rồi.
Gã chuyên gia thứ hai là người ở phòng xét nghiệm hình sự của bang. Lĩnh vực chuyên gia của gã là phân tích mẫu tóc. Bảy sợi lông vùng kín được tìm thấy trên người Emily, và gã này đã thuyết phục bồi thẩm đoàn rằng chúng là của Duke. Nhưng không đúng. Có thể chúng là của Mark Carter, dù chuyện đó vẫn chưa biết chắc được. Chưa thôi nhé. Đám ngờ nghệch phụ trách điều tra vụ này chỉ nghi ngờ chút ít với Carter, dù người ta thấy hắn là người cuối cùng ở với Emily.
Vết cắn và mẫu tóc đã bị xem là thiếu độ khả tín trong hầu hết các hệ thống hành pháp tiến bộ. Cả hai phương pháp này đều nằm trong phạm vi kiến thức bị xem là tệ hại và thiếu sự ổn định, mà các luật sư biện hộ và kháng cáo thường gọi là “khoa học tào lao,” có Chúa biết bao nhiêu người vô tội đã phải lãnh những bản án dài dằng dặc vì những chuyên gia thiếu tư cách này và những giả thuyết vô căn cứ của họ.
Bất kỳ luật sư biện hộ nào có chút phẩm chất sẽ đối chất ra ngô ra khoai với hai chuyên gia này, nhưng luật sư của Duke còn chẳng xứng đáng với thù lao 3.000 đô-la mà bang trả cho. Thật sự là anh ta chẳng xứng được trả đồng nào. Anh ta thiếu kinh nghiệm về án hình sự, nồng nặc mùi rượu trong phiên tòa, và chẳng chuẩn bị gì sất, thậm chí tin rằng thân chủ của mình có tội. Bản thân anh ta ba lần bị phạt vì tội say xỉn lái xe chỉ một năm sau phiên tòa đó, bị tước giấy phép luật sư và cuối cùng chết vì xơ gan.
Và tôi là người phải gom góp các mảnh chứng cứ và tìm cho được công lý.
Nhưng chẳng ai mời tôi tham gia vào vụ này cả. Như lâu nay luôn vậy, tôi tình nguyện.
Tôi đang trên xa lộ liên bang đến Montgomery, cách đó hai tiếng rưỡi lái xe, và thế là có nhiều thời gian để suy ngẫm trù tính. Nếu có ghé lại một nhà nghỉ, tôi cũng sẽ không ngủ được vì đang quá phấn khích với phép lạ phút chót đã đoạt được từ hư không. Tôi đã nhắn tin cho nhân viên tòa ở Atlanta để cảm ơn, cũng đã nhắn tin cho sếp, cầu trời, chắc giờ bà ấy ngủ rồi.
Sếp tôi là Vicki Gourley, làm việc trong một văn phòng nhỏ của Hội ở khu phố cũ tại Savannah. Mười hai năm trước, bà đã tự bỏ tiền túi để lập Hội Mục vụ Vệ nhân. Vicki là tín hữu Kitô mộ đạo, xem công việc của mình phát xuất trực tiếp từ Phúc âm. Chúa Jesus đã bảo phải nhớ đến các tù nhân. Bà không thường rảo quanh các nhà tù để thăm nom, thay vào đó, bà làm việc 15 tiếng một ngày để giải thoát những người vô tội. Nhiều năm trước, bà ở trong bồi thẩm đoàn đã kết án một thanh niên tội giết người và ra bản án tử. Hai năm sau, lời kết án sai bị vạch trần. Công tố viên đã che giấu chứng cứ giải tội và dùng đến lời khai man của một kẻ chỉ điểm trong tù. Cảnh sát đã dàn dựng chứng cứ và nói dối bồi thẩm đoàn. Khi kẻ sát nhân thực sự bị vạch trần bởi công nghệ ADN, Vicki đã bán công ty làm sàn của mình cho các cháu của bà, lấy tiền đó lập nên Hội Mục vụ Vệ nhân.
Tôi là người đầu tiên vào làm cho bà. Giờ đã có thêm người thứ hai.
Ngoài ra còn có thêm một nhân sự tự do tên là Francois Tatum, một người da đen 45 tuổi, từ hồi niên thiếu đã nhận ra rằng ở vùng quê Georgia sẽ dễ sống hơn nếu tự nhận mình tên là Frankie thay vì Francois. Có vẻ mẹ anh gốc Haiti nên đã đặt cho con cái những cái tên tiếng Pháp quá xa lạ với cái hốc hẻo lánh đó của thế giới nói tiếng Anh.
Frankie là người đầu tiên được tôi giải oan. Anh chịu án chung thân ở Georgia vì tội giết người mà anh không phạm. Lúc đó, tôi đang làm linh mục của Giáo hội Giám nhiệm ở một nhà thờ nhỏ tại Savannah. Chúng tôi lo mục vụ nhà tù và nhờ đó tôi gặp được Frankie. Trong đầu anh chỉ nghĩ đến một chuyện là mình vô tội, và chỉ toàn nói chuyện đó thôi. Anh thông minh và rất ham đọc, đã tự học thông thạo về luật. Sau hai lần gặp, anh đã hoàn toàn thuyết phục được tôi.
Trong thời gian đầu tham gia ngành luật, việc của tôi là biện hộ cho những người không đủ tiền thuê luật sư. Tôi đã biện hộ cho hàng trăm thân chủ, và sau một thời gian dài, tôi bắt đầu cho rằng họ đều có tội. Tôi chưa hề dừng lại mà nghĩ đến cảnh ngộ của những người bị kết án oan. Frankie đã thay đổi điều đó. Tôi lao vào điều tra vụ của anh và sớm nhận ra mình có thể chứng minh anh vô tội. Rồi tôi gặp Vicki, bà đề nghị tôi một công việc với mức lương còn thấp hơn việc mục vụ của tôi nữa. Và đến giờ vẫn thế.
Francois Tatum trở thành thân chủ đầu tiên thuê Hội Mục vụ Vệ nhân biện hộ. Sau 14 năm trong tù, anh đã bị người thân bỏ rơi hoàn toàn. Bạn bè cũng biến mất hết. Mẹ anh đã từ mặt anh, các anh chị em ruột thì sang ở với bà dì và không bao giờ xuất hiện lại. Anh chẳng biết cha mình là ai. Tôi là người đầu tiên đến thăm anh trong tù sau 12 năm ròng. Sự hờ hững đến thế thật quá đỗi kinh khủng, nhưng nó cũng có mặt tốt. Khi được trả tự do và hoàn toàn giải hết án oan, Frankie được Bang Georgia và những người chịu trách nhiệm đẩy anh vào tù bồi thường một khoản tiền lớn. Khi chẳng có người thân hay bạn bè bu bám xin tiền, anh lặng lẽ nhẹ nhàng lướt vào cuộc sống tự do. Anh có một căn hộ nhỏ ở Atlanta, một hộp thư ở Chattanooga, nhưng hầu hết thời gian, anh rong ruổi trên đường khám phá không gian rộng mở. Tiền của anh nằm rải rác ở nhiều ngân hàng khắp miền Nam, chẳng ai xác định hết được. Anh không muốn có mối quan hệ nào, vì đã quá sợ hãi chúng. Và còn vì anh luôn sợ người ta sẽ cố đào mỏ mình.
Frankie chỉ tin tôi, mỗi mình tôi. Khi vụ kháng cáo của anh đã đâu vào đấy, anh đề nghị trả cho tôi một khoản cực kỳ hậu hĩnh. Tôi từ chối. Anh xứng đáng giữ từng đồng đó khi đã sống sót khỏi nhà tù. Khi ký hợp đồng làm cho Hội Vệ nhân, tôi đã có lời thề khó nghèo. Nếu thân chủ của tôi có thể sống bằng khẩu phần ăn hai đô-la một ngày thì ít ra tôi cũng phải biết tằn tiện.
Đến phía Đông Montgomer, tôi ghé vào một trạm dừng chân xe tải ở Tuskegee. Trời vẫn còn tối, chưa đến 6:00 sáng và trên bãi đỗ xe đầy đá sỏi, những đầu máy kêu rù rù trong khi tài xế của chúng đang chợp mắt hoặc ăn sáng. Quán khá đông khách, cái mùi thịt xông khói và xúc xích xộc thẳng vào mũi ngay khi tôi vừa bước vào. Ở góc quán, Frankie vẫy tay gọi tôi.
Vì đang ở vùng thôn quê Alabama nên chúng tôi chào nhau bằng cái bắt tay chuẩn mực, thay vì ôm nhau thắm thiết. Hai người đàn ông, một đen một trắng, ôm nhau giữa trạm dừng xe tải chật kín người sẽ khiến một vài kẻ cau mày, nhưng chúng tôi cũng không quá lo về điều đó. Frankie có nhiều tiền hơn tất cả người ở chỗ này cộng lại, và anh vẫn rắn chắc, nhanh nhẹn như thời ở trong tù. Anh không gây chuyện. Đơn giản là anh có khí chất và tự tin đủ để khiến người khác phải chùn tay.
“Chúc mừng nhé,” anh nói. “Suýt soát lắm đấy.”
“Duke đã bắt đầu bữa ăn cuối cùng họ mới gọi đến. Anh ấy phải ăn vội.”
“Nhưng anh thì có vẻ rất tự tin.”
“Tôi giả vờ thôi, cái kiểu ra vẻ cứng của luật sư ấy mà. Bụng dạ tôi thì nôn nao cả lên.”
“Nhân nói về chuyện đó, chắc anh đói lắm rồi.”
“Quá chuẩn. Tôi đã gọi Carter ngay khi ra khỏi nhà tù. Không kìm được.”
Anh nhíu mày, “Được rồi. Tôi chắc là có lý do cả.”
“Không phải lý do hay ho gì đâu. Chỉ là tôi quá giận không kìm được thôi. Gã đó đang ngồi đếm từng phút đến giờ Duke bị tiêm thuốc độc. Anh có tưởng tượng nổi không, hung thủ thực sự lặng lẽ ăn mừng khi người chịu tội thay bị hành hình? Ta phải xử lý hắn, Frankie à.”
“Sẽ thế mà.”
Cô phục vụ đến, tôi gọi trứng và cà phê. Frankie thì ăn bánh kếp và xúc xích.
Anh nắm rõ về các vụ của tôi không kém gì tôi. Anh đọc hết mọi hồ sơ, biên bản, báo cáo và chi tiết phiên tòa. Frankie thấy lý thú khi đi vào một nơi chẳng ai biết anh như Verona, Alabama, để tìm thông tin. Anh táo bạo nhưng không bao giờ làm liều vì chẳng hề muốn bị bắt. Cuộc sống mới của anh quá tốt đẹp, sự tự do này quá giá trị với anh, nhất là anh đã phải thiếu thốn chúng quá lâu rồi.
“Ta phải kiếm được ADN của Carter,” tôi bảo. “Bằng cách nào đó.”
“Tôi biết, tôi biết mà. Tôi đang lo vụ đó. Anh cần nghỉ ngơi chút đi, sếp.”
“Chẳng phải tôi luôn thế à? Và hai ta đều biết rằng vì là luật sư, nên tôi không thể kiếm ADN của Carter theo cách bất hợp pháp được.”
“Nhưng tôi thì được, phải chứ?” Anh mỉm cười, nhấp ly cà phê. Cô phục vụ vừa đem ly cà phê của tôi đến, rót đầy.
“Có lẽ. Để bàn chuyện đó sau đi. Mấy tuần tới, hắn sẽ hoảng cả lên vì cuộc gọi của tôi cho mà xem. Hay cho hắn rồi. Hắn sẽ phạm sai lầm và ta sẽ nắm thóp hắn.”
“Giờ anh định đi đâu?”
“Savannah. Tôi sẽ ở đó vài ngày, rồi đến Florida.”
“Florida. Seabrook?”
“Phải, Seabrook. Tôi quyết định nhận vụ này.”
Khuôn mặt Frankie không bao giờ biểu cảm gì nhiều. Mắt anh hiếm khi nhấp nháy, giọng nói thì trầm đều như thể cân nhắc từng từ vậy. Để sống sót trong tù, người ta phải biết làm mặt tỉnh. Những quãng thời gian cô độc kéo dài không phải là chuyện lạ gì với anh. “Anh chắc chứ,” anh hỏi tôi, trong giọng nói rõ ràng có chút hoài nghi về Seabrook.
“Anh chàng đó vô tội, Frankie à. Và lại chẳng có luật sư.”
Đồ ăn lại dọn lên, và chúng tôi cắm đầu vào bơ, si-rô, nước sốt nóng. Vụ Seabrook đã được gửi đến văn phòng chúng tôi gần ba năm rồi, và chúng tôi, toàn thể nhân sự, đã tranh luận xem có nên dính vào vụ này không. Đây là chuyện khá bất thường với chúng tôi. Chẳng ngạc nhiên gì khi Hội Vệ nhân nhận vô số thư của các phạm nhân từ khắp 50 bang nói rằng mình vô tội, nhưng thực ra, đa số là không, nên chúng tôi phải xem xét và chọn lọc cẩn thận, chỉ nhận những vụ nào xác định vô tội rõ ràng nhất. Ấy thế mà đôi khi chúng tôi vẫn mắc sai lầm.
Frankie nói, “Anh xuống đó có thể hơi nguy hiểm đấy.”
“Tôi biết. Ta đã lần lữa lâu rồi. Và trong lúc đó, anh ấy đang đếm ngược từng ngày, chịu ngồi tù thay cho kẻ khác.”
Frankie miệng nhai bánh kếp, đầu gật rất khẽ, rõ ràng vẫn chưa hoàn toàn chấp nhận.
Tôi hỏi, “Có bao giờ ta trốn tránh một cuộc chiến cao đẹp chưa, Frankie?”
“Có lẽ lần này nên cho qua. Ngày nào anh chẳng từ chối vài vụ, phải chứ? Có lẽ vụ này nguy hiểm hơn mọi vụ khác đấy. Chúa biết anh có biết bao người để biện hộ mà.”
“Giờ anh yếu mềm rồi à?”
“Không, tôi chỉ không muốn thấy anh bị gì. Chẳng ai thấy được tôi, Cullen à. Tôi sống và làm việc trong bóng tối. Nhưng tên anh nằm trên đơn kháng cáo. Anh mà đi điều tra ở một nơi kinh khủng như Seabrook thì có thể chọc giận vài nhân vật sừng sỏ đấy.”
Tôi mỉm cười, “Thế thì càng phải làm chứ sao.”
Khi chúng tôi ra khỏi quán mặt trời đã lên. Trong bãi đỗ xe, chúng tôi ôm nhau chào từ biệt. Tôi chẳng biết giờ anh sẽ đi về đâu, cái hay của Frankie là thế. Sáng nào anh ấy cũng thức dậy như một người tự do, tạ ơn Chúa vì phúc phần của mình, rồi lên chiếc bán tải đời mới và rong ruổi dưới ánh mặt trời.
Sự tự do của anh tiếp thêm sinh lực cho tôi trên con đường này. Nếu không nhờ Hội Mục vụ Vệ nhân, hẳn Frankie đã mục ruỗng trong tù rồi.
← Giáo hội Giám nhiệm (Episcopal Church) là một nhánh của Giáo hội Anh giáo. Và như các giáo hội Anh giáo, linh mục của họ được phép lập gia đình, không như các linh mục công giáo.