Chương 3
Chẳng có tuyến đường đi thẳng từ Opelika, Alabama, đến Savannah. Tôi rời xa lộ liên bang và bắt đầu đi qua vùng trung Georgia trên con đường hai làn xe đông đúc vì đang là buổi sáng. Tôi từng qua đây rồi. Trong mười năm qua, tôi đã đi hầu như mọi đường cao tốc dọc Vành đai Tử thần, từ Bắc Carolina đến Texas. Có lần tôi suýt nhận một vụ ở California, nhưng Vicki đã hủy nó. Tôi không thích sân bay và Hội cũng chẳng đủ tiền để tôi bay đi bay về. Thế nên tôi bỏ khá nhiều giờ sau vô-lăng, kèm theo đó là khá nhiều cà phê đen và sách nói. Tôi cứ luân phiên giữa những khoảng suy nghĩ sâu lắng và những phút hăng hái qua điện thoại.
Vào một thành phố nhỏ, tôi đi ngang qua tòa án và thấy ba luật sư trẻ trong bộ vest đẹp nhất của họ đang hối hả bước vào, chắc chắn là dự một vụ quan trọng. Cách đây không lâu, hẳn tôi cũng thế.
Lần đầu tôi bỏ ngành luật là năm 30 tuổi, và vì lý do chính đáng.
Buổi sáng đó bắt đầu với tin tức kinh hoàng về hai thiếu niên da trắng 16 tuổi bị cắt cổ chết. Cả hai đều bị cắt xẻo bộ phận sinh dục. Hai đứa trẻ đang đỗ xe ở một vùng quê hẻo lánh, thì bị một nhóm thiếu niên da đen xông đến cướp xe. Vài giờ sau, người ta tìm thấy chiếc xe. Trong xe, hội đó vẫn đang tám chuyện vui vẻ.
Cảnh sát bắt giữ chúng. Báo đài đưa tin rầm rộ. Đấy đúng là tin ban sáng chuẩn mực ở Memphis mà. Vụ bạo lực đêm qua được gửi đến quần chúng chán nản vốn luôn đau đáu một câu hỏi: “Ta còn chịu đựng được bao nhiêu nữa?” Tuy thế, thậm chí với Memphis, tin này vẫn quá sốc.
Tôi và Brooke xem tin đó trên giường khi đang nhâm nhi ly cà phê đầu ngày như thường lệ. Sau bản tin đầu tiên, tôi lẩm bẩm, “Vụ này có thể tệ lắm đây.”
“Vụ này chắc chắn tệ lắm rồi,” cô ấy chỉnh lại.
“Em hiểu ý anh mà.”
“Anh sẽ bào chữa cho một trong số chúng à?”
“Anh đang cầu nguyện đây này,” tôi nói. Đến lúc bước vào bồn tắm, tôi cứ nôn nao cả lên và nghĩ cách để khỏi phải đến văn phòng. Tôi chẳng còn thiết ăn gì, bỏ cả bữa sáng. Khi tôi chuẩn bị đi thì chuông điện thoại reo lên. Cấp trên giục tôi đến nhanh. Tôi hôn chào Brooke, “Chúc anh may mắn nhé. Sẽ là một ngày dài đây.”
Văn phòng luật sư công nằm trong Khu phức hợp Tư pháp ngay trung tâm thành phố. Lúc tám giờ, khi tôi bước vào đó, bầu không khí u ám như nhà xác. Ai cũng có vẻ thu mình trong bàn làm việc của mình và tránh nhìn mặt nhau. Vài phút sau, cấp trên gọi điện bảo chúng tôi vào phòng họp. Nhóm chuyên trọng án có bảy người, và vì đây là Memphis, nên chúng tôi có rất nhiều thân chủ phải lo. Ở tuổi 30, tôi là người trẻ nhất, và khi nhìn quanh phòng, tôi biết lần này đến lượt mình rồi.
Sếp của tôi bảo, “Có vẻ chúng có năm người, đều đang bị giam. Từ 15 đến 17 tuổi. Hai tên đã đồng ý khai. Có vẻ chúng tìm thấy hai cô cậu đó đang vui vẻ ở băng ghế sau, rồi tấn công. Bốn trong năm bị cáo là thành viên dự bị của băng Raven, và để được kết nạp, chúng phải cưỡng hiếp một cô gái da trắng, tóc vàng. Crissy Spangler có tóc vàng hoe. Tên cầm đầu, Lamar Robinson, là kẻ ra lệnh. Cậu bé Will Foster bị cột vào cây và phải chứng kiến chúng thay nhau cưỡng hiếp Crissy. Khi cậu ấy không chịu im lặng, chúng cắt bộ phận sinh dục rồi cắt cổ cậu ấy. Sở Cảnh sát Memphis đang gửi ảnh đến.”
Sáu người chúng tôi đứng đó kinh hoàng và câm lặng trước thực tế rùng rợn này. Tôi bỗng liếc mắt về phía khung cửa sổ cài then. Giờ mà nhảy chúi đầu xuống công viên cũng chẳng có gì là vô lý.
Sếp nói tiếp, “Chúng lấy xe của Will, vượt đèn đỏ ở Đường Nam số 3, khôn thật. Cảnh sát chặn ba người bọn chúng lại, thấy có máu, và bắt giam. Hai tên chịu khai, nói rõ đầu đuôi vụ việc. Chúng nói rằng những tên khác mới là kẻ thủ ác, nhưng lời khai của chúng cho thấy cả năm tên đều tham gia. Pháp y đang đến. Không cần phải nói, chúng ta dính sát rạt với vụ này rồi. Chiều nay sẽ có buổi trình diện lần đầu cho hai bị cáo, và tình hình đang rối tung. Báo giới có mặt khắp nơi, tình tiết bị rò rỉ liên tục.”
Tôi nhích lại gần cửa sổ một chút. Tôi nghe ông ấy nói, “Post, cậu nhận một tên 15 tuổi, Terrence Lattimore. Cho đến giờ, hắn chưa chịu khai gì.”
Khi phân công những người khác xong, cấp trên bảo chúng tôi, “Giờ đến phòng giam và gặp thân chủ mới của các cậu ngay. Hãy báo cho cảnh sát rằng không được thẩm vấn chúng nếu không có các cậu hiện diện. Chúng là thành viên băng đảng, và nhiều khả năng sẽ không chịu hợp tác, nhất là khi còn sớm thế này.”
Ông nói xong thì nhìn chúng tôi, những kẻ đen đủi này, nhìn từng người mà nói, “Tôi xin lỗi.”
Một tiếng sau, khi tôi đang đi vào trại giam của thành phố, thì có ai đó, có lẽ là nhà báo, hét lên, “Anh biện hộ cho một trong số lũ giết người đó hả?”
Tôi vờ như không nghe thấy và bước tiếp.
Khi tôi vào phòng gặp chật hẹp, Terrence Lattimore ngồi đó, bị Còng ở cổ tay và cổ chân, xích vào một cái ghế sắt. Khi chỉ còn hai chúng tôi với nhau, tôi giải thích rằng tôi được chỉ định biện hộ cho cậu ta và cần hỏi vài câu, những câu đơn giản mở đầu thôi. Đáp lại, cậu ta chỉ trừng mắt và cười mỉa. Có lẽ cậu ta chỉ mới 15 tuổi, nhưng là đứa gai góc đã trải hết sự đời, được trui rèn trong những trận đánh nhau, theo kiểu băng đảng, ma túy và bạo lực. Cậu ta ghét tôi và tất cả những ai mang màu da trắng. Cậu ta bảo là không có địa chỉ và bảo tôi tránh xa gia đình cậu ta ra. Tiền án tiền sự của thiếu niên này gồm hai lần bị đuổi học, bốn lần bị kết tội ở tòa vị thành niên, tất cả đều liên quan đến bạo lực.
Đến trưa, tôi đã sẵn sàng nộp đơn từ chức và tìm một công việc khác. Ba năm trước, tôi chỉ gia nhập văn phòng luật sư công vì không thể xin nổi vào hãng luật nào. Và sau ba năm vắt sức trong vũng lầy của hệ thống tư pháp hình sự, tôi đã nhiều lần tự vấn tại sao lú đầu mình vào trường luật làm gì. Tôi thật sự chẳng nhớ rõ lý do đó nữa. Sự nghiệp này đẩy tôi tiếp xúc hằng ngày với những người mà nếu ở ngoài tòa án, chẳng bao giờ tôi buồn đến gần.
Bữa trưa thì khỏi nói, vì chẳng ai nuốt nổi. Năm người được chọn chúng tôi vào họp với cấp trên và xem qua ảnh chụp hiện trường cũng như báo cáo pháp y. Vừa xem xong, tôi liền nôn thốc nôn tháo.
Tôi đang làm gì với đời mình thế này? Là một luật sư hình sự, tôi đã quá chán với câu hỏi “Sao anh có thể biện hộ cho một kẻ mà ai cũng biết là có tội chứ?” Tôi luôn trả lời đúng sách vở đã học ở trường luật, “Ai cũng có quyền được biện hộ thích đáng. Quyền đó được ghi trong Hiến pháp.”
Nhưng tôi không còn tin thế nữa. Sự thật là có những tội ác quá tàn bạo và ghê tởm đến mức kẻ thủ ác phải bị xử tử, và nếu như người ta không chấp nhận án tử hình, thì hắn cũng phải bị tù chung thân. Khi rời phòng họp kinh khiếp đó, niềm tin lâu nay của tôi bị lung lay tận gốc rễ.
Tôi rúc vào cái hốc gọi là văn phòng của mình, nơi ít nhất có cửa để khóa lại, để không phải gặp ai nữa. Từ cửa sổ nhìn xuống đường, tôi hình dung mình nhảy đi và hạ cánh nhẹ nhàng ở bãi biển đẹp đẽ nào đó, tận hưởng cuộc đời tươi sáng, chẳng phải lo gì ngoài biển xanh cát trắng và những ly cocktail mát lạnh. Kỳ lạ thay, trong những giấc mơ đó của tôi, lại chẳng có Brooke. Điện thoại bàn bỗng vang lên, lôi tôi khỏi giấc mơ êm đềm.
Mà đó không phải mơ, ảo giác thì đúng hơn. Mọi thứ đột nhiên như thước phim quay chậm, và tôi chật vật lắm mới thốt lên được hai chữ, “Alo.” Nghe tiếng thì là một nhà báo muốn hỏi vài câu về đám sát nhân. Làm như tôi sẽ tiết lộ tình tiết vụ án cho cô ta vậy. Tôi gác máy. Một tiếng trôi qua, và tôi chẳng biết mình đã làm gì trong một tiếng đó nữa. Tôi tê dại và nôn nao, chỉ muốn chạy thoát khỏi tòa nhà. Tôi nhớ mình có gọi cho Brooke, báo tin kinh khủng này.
Buổi trình diện đầu tiên vào lúc hai giờ chiều được dời địa điểm từ phòng xử án nhỏ sang một phòng lớn hơn, thế mà vẫn kín chỗ. Vì mức độ của vụ này, Memphis đã điều rất nhiều cảnh sát, và hầu hết bọn họ đều dồn cả vào phòng xử án chiều nay. Họ chặn tất cả cửa vào, khám xét mọi nhà báo và người dự khán. Trong phòng xử án, cảnh sát đứng hai hàng dọc lối đi giữa và rải đều ở ba bức tường.
Một người anh em họ của Will Foster là lính cứu hỏa ở Memphis. Anh đến cùng một nhóm đồng nghiệp, và có vẻ họ sẵn sàng lao vào trả nợ máu bất kỳ lúc nào. Vài người da đen co rúm ở góc cuối phòng, cách xa gia đình các nạn nhân hết mức có thể. Nhìn đâu cũng thấy nhà báo, nhưng không ai được cầm theo máy ảnh. Các luật sư không có phận sự cũng chen chúc kiếm một chỗ với vẻ hiếu kỳ.
Tôi vào phòng xử án bằng cửa riêng, nhẹ nhàng đi qua để rồi sững sờ trước đám đông này. Người đâu mà chật kín cả phòng. Một bầu không khí nặng nề đặc quánh bao trùm.
Thẩm phán vào ghế và yêu cầu tất cả trật tự. Năm bị cáo được đưa vào, cả năm đều mặc đồ tù nhân màu cam, xích chung với nhau. Những người dự khán hau háu nhìn xuống. Đám họa sĩ phóng sự thì hí hoáy vẽ hình minh họa. Sau lưng năm bị cáo là một hàng cảnh sát che chắn họ khỏi đám đông. Các bị cáo đứng trước thẩm phán, ai cũng cúi gằm mặt. Từ sau những hàng ghế dự khán, một tiếng dữ dội hét lên. “Xử chúng luôn đi, khốn kiếp! Cho chúng đi luôn!” Cảnh sát liền dẹp yên anh ta.
Một bà nọ thì hét lên trong nước mắt.
Tôi bước đến sau lưng Terrence Lattimore, đứng cùng hàng với bốn đồng nghiệp của mình. Vừa bước lên, tôi vừa nhìn những người đang ngồi với nhau ở hai hàng ghế đầu. Rõ ràng họ là người thân thiết với các nạn nhân, và ánh mắt của họ dành cho tôi hiện rõ hai chữ căm ghét.
Thân chủ ghét tôi. Nạn nhân cũng ghét tôi. Thế thì tôi đứng trong phòng xử án này để làm gì?
Thẩm phán đập búa, “Trật tự. Đây là buổi trình diện đầu tiên, mục đích là xác định danh tính của các bị cáo và bảo đảm họ có luật sư biện hộ. Chỉ thế thôi. Giờ thì, ai là Lamar Robinson?”
Robinson ngước lên và lắp bắp nói gì đó.
“Anh bao nhiêu tuổi, anh Robinson?”
“Mười bảy.”
“Cô Julie Showalter ở văn phòng luật sư công đã được chỉ định biện hộ cho anh. Anh đã nói chuyện với cô ấy chưa?”
Đồng nghiệp Julie của tôi bước lên, đứng giữa Robinson và bị cáo bên cạnh. Vì các bị cáo bị xích lại với nhau, nên luật sư chỉ có thể tiến lại sát họ được chừng đó. Trong phòng xử án, các bị cáo luôn được tháo còng và xích, nhưng lần này thì không, và điều đó thể hiện rõ thái độ của thẩm phán về vụ này rồi.
Robinson ngoái nhìn Julie và nhún vai.
“Anh có muốn cô ấy biện hộ cho mình không, anh Robinson?”
“Cho tôi luật sư da đen được không?”
“Anh có thể thuê bất kỳ ai anh muốn. Anh có tiền để thuê luật sư riêng không?”
“Có lẽ.”
“Được, ta sẽ bàn chuyện đó sau. Giờ đến anh Terrence Lattimore.” Terrence nhìn thẩm phán như thể muốn xông lên cắt cổ cả ông ta luôn vậy.
“Anh bao nhiêu tuổi, anh Lattimore?”
“Mười lăm.”
“Anh có tiền để thuê luật sư riêng không?”
Cậu ta lắc đầu.
“Anh có muốn anh Cullen Post ở văn phòng luật sư công biện hộ cho mình không?”
Cậu ta nhún vai bất cần.
Thẩm phán nhìn tôi, “Anh Post, anh đã nói chuyện với thân chủ của mình chưa?”
Và anh Post là tôi đây chẳng thể trả lời. Tôi đã cố mở miệng, nhưng không nói được gì. Tôi lùi một bước, mắt vẫn chăm chăm về phía thẩm phán đang nhìn tôi không chớp mắt. “Anh Post?”
Phòng xử vẫn im lìm, nhưng tai tôi ong lên, một tiếng inh tai nhức óc cứ dội vào. Đầu gối nhũn, thở không ra hơi, tôi lại lùi thêm bước nữa, và quay người băng qua hàng rào cảnh sát. Tôi đi thẳng ra dãy chắn, đẩy tấm chắn, bước vào lối đi giữa khán phòng. Tôi liên tục va vào các cảnh sát đứng hai bên lối đi, không một ai cố cản tôi lại. Hình như thẩm phán có nói, “Anh Post, anh đi đâu vậy?” Anh Post đó cũng chẳng biết.
Tôi qua cửa chính, rời phòng xử án, và đi thẳng đến phòng vệ sinh nam, vào một buồng, khóa cửa lại, rồi nôn, nôn mãi đến khi không còn gì trong bụng nữa. Nôn xong, tôi ra bồn rửa, táp nước lên mặt, sau đó hình như tôi đi xuống bằng thang cuốn, nhưng chẳng ý thức được gì về thời gian, địa điểm, âm thanh hay cử động gì hết. Tôi chẳng nhớ mình rời tòa nhà khi nào nữa.
Chẳng hiểu bằng cách nào, tôi lại đang trên xe, lái dọc đại lộ Poplar về phía Đông, cố thoát khỏi thành phố. Tôi vô thức vượt cả đèn đỏ và suýt chút nữa gây tai nạn. Tiếng bóp còi inh ỏi giận dữ văng vẳng sau lưng. Rồi tôi nhận ra mình đã để quên cặp táp ở phòng xử án, thế mà tôi cười. Không đời nào tôi lấy nó đâu, lấy làm gì.
Ông bà ngoại tôi sống ở một nông trại nhỏ cách Dyersburg, Tennessee, mười dặm. Tôi về đến đó, mà chẳng biết là lúc nào, cũng chẳng nhớ sao mình lại quyết định về quê nhà. Ông bà tôi ngạc nhiên, nhưng nhanh chóng nhận ra tôi đang gặp chuyện. Ông bà thay nhau hỏi, nhưng đáp lại chỉ là ánh mắt trống rỗng vô hồn. Họ cho tôi đi nằm và gọi Brooke.
Tối đó, xe cấp cứu đến đưa tôi đi. Brooke đi cùng tôi suốt ba tiếng đến một bệnh viện tâm thần gần Nashville. Bệnh viện ở Memphis hết chỗ, mà tôi cũng chẳng muốn về lại nơi đó. Những ngày tiếp theo, tôi bắt đầu trị liệu và dùng thuốc, kèm những buổi tư vấn dài giờ với bác sĩ tâm lý, rồi dần dần bình phục. Sau một tháng, công ty bảo hiểm thông báo rằng họ sẽ không chi trả nữa. Lúc đó, tôi cũng đã sẵn sàng để xuất viện.
Tôi chẳng muốn trở lại căn hộ ở Memphis, nên chuyển đến sống với ông bà ngoại. Suốt thời gian đó, tôi và Brooke cũng quyết định chia tay. Thật ra, trong ba năm kết hôn với nhau, từ năm thứ hai, chúng tôi đã nhận ra mình không thể sống bên nhau trọn đời và cố gắng chỉ khiến cả hai thêm đau khổ. Lúc đó, chúng tôi chẳng dám nói thẳng ra với nhau, cả hai vẫn êm đềm, hiếm khi cãi vã hay gây gổ gì. Nhưng không hiểu sao, trong những ngày tăm tối đó, chúng tôi lại tìm được can đảm để thành thực thú nhận. Trong lòng vẫn còn yêu, nhưng cuộc sống hai đứa đã xa nhau quá rồi. Mới đầu, chúng tôi đồng ý ly thân một năm để xem sao, nhưng rồi quyết định đó cũng bị gạt đi luôn. Tôi chưa hề trách cô ấy bỏ tôi trong cơn suy sụp này. Chính tôi cũng muốn dừng như cô ấy vậy. Chúng tôi đau đớn chia tay nhau, nhưng thề vẫn sẽ làm bạn, hoặc ít nhất cố gắng để làm bạn. Thế mà cả chuyện đó cũng không thành.
Brooke vừa bước ra khỏi đời tôi, thì Chúa đến gõ cửa. Ngài đến qua cha Bennie Drake, linh mục Giáo hội Giám nhiệm ở nhà thờ Dyersburg. Cha Bennie tầm 40, ngầu và chất, nói năng hóm hỉnh, hầu như lúc nào cũng mặc quần jeans bạc màu kèm áo sơ-mi đen và cổ áo linh mục. Chẳng mấy chốc cha đã là điểm sáng trong những ngày tăm tối của tôi. Mới đầu cha viếng thăm tôi hàng tuần, rồi chẳng mấy chốc thành hằng ngày, và tôi cứ trông mong đến giờ đàm đạo cùng cha trước hiên nhà. Tôi tin tưởng cha ngay lập tức và thú nhận với cha rằng tôi chẳng còn muốn quay trở lại ngành luật. Tôi chỉ mới 30 và muốn làm một công việc giúp đỡ tha nhân. Tôi không muốn dành cả quãng đời còn lại để đi kiện tụng hoặc bào chữa cho kẻ có tội, hay phải cày cuốc trong những công ty luật đầy áp lực. Càng thân thiết với cha Bennie, tôi càng muốn giống cha hơn. Cha thấy tôi có phẩm chất và gợi ý tôi nên cân nhắc chuyện làm linh mục. Chúng tôi đã cùng nhau cầu nguyện nhiều giờ, chuyện trò trao đổi còn lâu hơn nữa. Dần dần, trong lòng tôi bắt đầu cảm thấy tiếng Chúa gọi.
Tám tháng sau phiên trình diện khủng khiếp đó, tôi chuyển đến Alexandria, Virginia và gia nhập chủng viện, chuyên tâm học hành suốt ba năm trời. Để trang trải, tôi làm trợ lý điều tra tại một hãng luật lớn ở DC, 24 tiếng mỗi tuần. Tôi ghét công việc này, nhưng vẫn che giấu được sự khinh bỉ đó. Và cứ thế, cứ mỗi tuần trôi qua, cái lý do vì sao tôi bỏ nghiệp này cứ hiện ra rõ mồn một.
Đến năm 35 tuổi, tôi được phong chức và làm linh mục phụ tá tại Nhà thờ Giám nhiệm Hòa bình trên phố Drayton, hạt Savannah. Linh mục chánh xứ là Luther Hodges, cha đã phụ trách tuyên úy cho nhà tù nhiều năm rồi. Chú của cha đã chết trong tù, và cha quyết tâm giúp đỡ những con người bị lãng quên này. Ba tháng sau khi chuyển đến Savannah, tôi gặp Francois Tatum, một con người thật sự bị đời đẩy vào quên lãng.
Hai năm sau, đưa được Frankie ra khỏi tù là chuyện vui mừng nhất đời tôi. Tôi đã tìm được ơn gọi của mình. Và nhờ Chúa dẫn lối, tôi gặp được Vicki Gourley, một người dốc trọn vì sứ mệnh của mình.