Chương 4
Hội Mục vụ Vệ nhân đặt văn phòng ở một góc nhỏ trong nhà kho cũ phố Broad tại Savannah. Phần còn lại của tòa nhà, là trụ sở của công ty đóng sàn mà Vicki đã bán đi nhiều năm về trước. Bà vẫn là chủ nhà kho này, và cho các cháu thuê lại nó để làm ăn. Hầu hết tiền thuê nhà bà đều chi cho công tác của Hội.
Khi tôi đến nơi thì đã gần trưa. Tôi chẳng trông chờ sẽ được chào đón như người hùng, và cũng chắc chắn là sẽ không có việc này. Văn phòng chúng tôi chẳng có tiếp tân, chẳng có khu vực tiếp khách, cũng chẳng có chỗ đẹp để bàn chuyện với thân chủ. Họ đều trong tù cả. Chúng tôi chẳng có thư ký vì không đủ tiền để tuyển. Đánh máy, lưu hồ sơ, lên lịch, trả lời điện thoại, pha cà phê, đổ rác, tất tần tật mọi việc chúng tôi đều tự làm.
Hầu như bữa trưa nào Vicki cũng ghé ăn cùng mẹ đang ở nhà an dưỡng cùng con phố. Văn phòng của bà quá ngăn nắp, giấy tờ trên bàn tờ nào ngay ngắn tờ nấy. Trên bàn nhỏ sau bàn làm việc, là ảnh Vicki và Boyd, người chồng quá cố của bà. Ông đã lập nên công ty này, và sau khi ông mất sớm bà đã tiếp quản rồi điều hành nó với bàn tay sắt cho đến khi chuyển sang lập Hội Vệ nhân vì quá bực mình với hệ thống tư pháp này.
Đối diện văn phòng bà là văn phòng của Mazy Ruffin, phụ trách kiện tụng và là bộ não của Hội. Tôi cũng chẳng thấy cô ấy đâu, có lẽ đang đi chăm bọn trẻ ở đâu đó. Cô có bốn đứa con, thường đến chơi trụ sở Hội vào những buổi chiều. Và những lúc bọn trẻ huyên náo như thế, Vicki chỉ nhẹ nhàng đóng cửa phòng mình để làm việc. Tôi cũng thế, trong mỗi lần hiếm hoi ngồi làm chút việc ở đây. Bốn năm trước, khi chúng tôi tuyển Mazy, cô ấy đã ra hai điều kiện miễn thương lượng. Thứ nhất là được đưa con cái đến văn phòng khi cần thiết, vì cô ấy không đủ tiền để thuê người trông trẻ. Thứ hai là mức lương. Cô ấy cần 65.000 đô-la mỗi năm để đủ sống, không thiếu một xu. Lương của cả tôi và Vicki cộng lại cũng chưa đến mức đó, nhưng chúng tôi chẳng phải nuôi con nên không có gì phải lo chuyện lương bổng. Chúng tôi đã đồng ý với cả hai yêu cầu, và đến tận lúc này, Mazy vẫn là người được trả lương cao nhất Hội.
Mazy là người xuất sắc về thương lượng. Cô ấy lớn lên ở những khu dân cư nghèo miền Nam Atlanta, từng trải qua cảnh vô gia cư, dù cho hiếm khi cô nhắc đến thời gian đó. Nhờ thông minh xuất sắc, một giáo viên trung học đã chú ý đến cô và yêu thương giúp đỡ cô nhiều. Cô được học bổng toàn phần tại Đại học Morehouse và Trường Luật Emory, rồi ra trường với số điểm gần như tuyệt đối. Cô từ chối các hãng luật lớn và thay vào đó làm luật sư cho người cùng màu da với mình ở Quỹ Biện hộ Pháp lý NAACP. Sự nghiệp của cô xuống dốc khi hôn nhân đổ vỡ. Sau đó, khi chúng tôi đang cố tìm thêm một luật sư cho Hội, một người bạn đã giới thiệu cô.
Tầng trệt là lãnh địa của hai nữ chủ. Mỗi lần đến đây, tôi đều ở tầng hai, trong căn phòng bé xíu mà tôi xem là văn phòng. Đối diện phòng tôi là phòng họp, dù chúng tôi chẳng mấy khi vào đó. Thường thì chúng tôi chỉ dùng nó mỗi khi cần lấy lời chứng hoặc gặp gỡ thân chủ và gia đình.
Tôi vào phòng họp, mở đèn lên. Ở giữa phòng là chiếc bàn oval dài mà tôi mua ở chợ trời với chỉ 100 đô-la. Quanh bàn có mười chiếc ghế đủ chủng loại mà chúng tôi gom góp qua nhiều năm. Dù thiếu phong cách và thẩm mỹ, nhưng phòng này lại vô cùng chất. Trên Bức tường Danh vọng, theo cách gọi tự hào của chúng tôi, là tám bức chân dung của những người được giải oan, tất nhiên người ở đầu hàng là Frankie. Những gương mặt hân hoan của họ chính là linh hồn và tâm điểm của Hội. Họ thúc đẩy chúng tôi xông lên, đấu tranh với bộ máy pháp lý, đấu tranh giành tự do và công lý.
Chỉ mới có tám người, còn hàng ngàn người nữa đang chờ. Công việc của chúng tôi là vô tận, và dù đó là một sự thật có lẽ gây nản lòng, nhưng thực sự, cũng là thứ truyền động lực vô cùng.
Trên bức tường khác là năm tấm ảnh nhỏ của những thân chủ hiện thời, tất cả đều trong bộ áo tù. Duke Russell ở Alabama. Shasta Briley ở Bắc Carolina. Billy Rayburn ở Tennessee. Curtis Wallace ở Mississippi. Little Jimmy Flagler ở Georgia. Ba người da đen, hai người da trắng, một người là phụ nữ. Màu da và giới tính chẳng thành vấn đề. Quanh phòng là bộ sưu tập những trang báo đóng khung ghi lại những khoảnh khắc rực rỡ lúc chúng tôi đi cùng các thân chủ vô tội ra khỏi nhà tù. Hầu như tấm nào cũng có tôi, đi cùng các luật sư đã hỗ trợ trong những vụ đó. Vài tấm có Mazy và Vicki. Nhưng trên những tấm ảnh, nụ cười của ai cũng hệt như nhau.
Tôi leo cầu thang lên căn penthouse của mình. Vicky đã cho tôi ở miễn phí trong căn hộ ba phòng tại tầng trên cùng. Tôi không mô tả đồ đạc ở đó đâu. Có thể nói, trong đời tôi hiện giờ chỉ có hai người phụ nữ, là Mazy và Vicki, và họ chẳng hề lên đây làm gì. Mỗi tháng tôi về đây mười hôm, và rõ ràng là chẳng muốn bỏ thời gian để dọn dẹp gì mấy. Thật sự là nếu tôi có ở đây thường xuyên thì nó cũng chỉ bừa bộn thêm chứ chẳng thể nào khá hơn nổi.
Tôi vào phòng tắm, rồi lăn ra giường.
Sau hai tiếng ngủ như chết, tôi tỉnh giấc vì tiếng ồn dưới lầu. Tôi mặc vội áo quần và lao xuống. Mazy chào tôi với nụ cười hết cỡ và cái ôm chặt cứng. “Chúc mừng anh, chúc mừng, chúc mừng.”
“Suýt thì hỏng bét ấy, rất sít sao. Khi họ gọi đến thì Duke đang ăn món bít-tết rồi.”
“Anh ấy có ăn xong không?”
“Dĩ nhiên là xong chứ.”
Bé Daniel, cậu con trai bốn tuổi của Mazy, chạy đến ôm chầm tôi. Nó chẳng biết tối qua tôi ở đâu hay đã làm gì, lúc nào nó cũng sẵn sàng ôm lấy tôi. Vicki nghe thấy tiếng chuyện trò và cũng chạy đến. Thế là tôi lại được ôm, được chúc mừng.
Lần thất bại trong điệp vụ giải cứu Albert Hoover ở Bắc Carolina, chúng tôi đã khóc cùng nhau trong văn phòng của Vicki. Lần này tuyệt hơn nhiều.
“Tôi có pha cà phê đây,” Vicki nói.
Văn phòng bà rộng hơn của Mazy, và không để đầy đồ chơi hay những cái bàn xếp với sách tô màu, nên chúng tôi qua đó để họp nhanh một chút. Vì tối qua tôi đã gọi điện cho cả hai suốt giờ sinh tử căng thẳng, nên họ nắm gần hết chi tiết rồi. Tôi kể lại cuộc gặp với Frankie, rồi cả ba cùng bàn bước tiếp theo trong vụ của Duke. Giờ tôi mới nhận ra là hiện giờ không có vụ gì gấp gáp, không có ai bị lên lịch hành hình, không có thời khắc chỉ mành treo chuông nào cả, thật nhẹ nhõm, quá nhẹ nhõm. Các tử tù đều chờ đợi nhiều năm, mọi chuyện diễn ra rất chậm, cho đến khi người ta lên lịch ấn định ngày tai ác ấy. Rồi tất cả bỗng rối ren cả lên, chúng tôi phải chạy đua với thời gian, và một khi có được lệnh hoãn thi hành án rồi, chúng tôi biết là phải vài tháng, hoặc thậm chí vài năm, cơn hoảng loạn đó mới xảy đến lần nữa. Nhưng không thể nào thư giãn hoàn toàn, vì thân chủ của chúng tôi vô tội và đang đấu tranh để sống sót trong cơn ác mộng tù tội.
Chúng tôi bàn thảo về bốn vụ kia, không vụ nào phải gấp gáp đến điên cuồng vì có ngày hành hình.
Tôi mở lời nói về vấn đề khó nói nhất của Hội, “Vicki à, ngân sách thế nào rồi?”
Bà mỉm cười, như lúc nào cũng thế, “Ồ, ta phá sản rồi.”
Mazy nói, “Tôi phải gọi một cuộc.” cô đứng lên, hôn nhẹ lên trán tôi, “Giỏi lắm, Post,” rồi về văn phòng mình.
Cô thường không muốn bàn đến chuyện ngân sách, tôi và Vicki cũng không muốn cô phải nhọc lòng vì chuyện đó.
Vicki quay sang tôi, “Tổ chức Cayhill vừa gửi tặng chi phiếu 50.000, vậy là ta có khoản để chi dùng trong vài tháng tới.” Công việc của Hội cần đến nửa triệu đô-la một năm, và chúng tôi xoay sở ra con số đó bằng cách tìm đến, thật sự là đi năn nỉ nài van, các tổ chức phi lợi nhuận nhỏ và một vài cá nhân hảo tâm. Nếu ham gây quỹ, tôi có thể dành đến nửa thời gian trong ngày để gọi điện, viết thư và nói những bài mủi lòng. Số tiền chúng tôi gây quỹ được có tương quan với số người vô tội chúng tôi có thể giải oan, nhưng tôi chẳng có thời gian lẫn hứng thú với việc đi xin. Từ lâu, tôi và Vicki đã quyết định rằng chúng tôi sẽ tránh nỗi phiền não vì chi phí cho nhân sự đông người và áp lực gây quỹ triền miên. Chúng tôi muốn tổ chức gọn nhẹ, và đến giờ vẫn thế.
Để giải oan một vụ phải mất nhiều năm ròng và tiêu tốn ít nhất 200.000 đô. Lạ lùng là, mỗi khi cần thêm tiền, chẳng hiểu sao chúng tôi đều có người giúp.
“Ta sẽ ổn cả thôi,” bà nói câu cửa miệng của mình. “Tôi đang xin thêm trợ cấp và cố thuyết phục vài nhà hảo tâm. Ta sẽ trụ được. Lúc nào chẳng thế.”
“Mai tôi sẽ gọi vài cuộc,” tôi hứa. Dù là chuyện tôi không ưa, nhưng vẫn buộc mình phải dành vài giờ mỗi tuần để gọi cho các luật sư có cảm tình với chúng tôi để xin tiền. Tôi cũng có một cơ số nhà thờ để xin hỗ trợ. Chúng tôi không hẳn là hội mục vụ tôn giáo, nhưng tự nhận là thế cũng đâu ảnh hưởng gì đến tiêu chí của Hội.
Vicki hỏi, “Có vẻ anh định đến Seabrook.”
“Phải. Tôi đã quyết định rồi. Ta đã lưỡng lự ba năm rồi, và tôi cũng chán bàn lui bàn tới vụ này. Chúng ta tin chắc rằng anh ấy vô tội. Anh ấy đã ngồi tù 25 năm mà chẳng có luật sư nào hỗ trợ. Chẳng ai chịu nhận vụ của anh ấy, và tôi muốn chúng ta là người đầu tiên.”
“Mazy và tôi ủng hộ anh.”
“Cảm ơn bà.” Sự thật là, về việc chọn theo hoặc bỏ vụ nào, tôi mới là người quyết định. Chúng tôi đánh giá các vụ án trong một thời gian dài, tìm hiểu cặn kẽ các thông tin dữ kiện hết sức có thể, và nếu một trong ba người kiên quyết phản đối, chúng tôi sẽ không nhận vụ đó. Vụ ở Seabrook đã đau đáu trong lòng chúng tôi suốt một thời gian dài, chủ yếu là bởi chúng tôi chắc chắn rằng anh ấy đã bị gài tội.
Vicki nói, “Tối nay, tôi sẽ nướng thịt gà Cornwall.”
“Sướng quá. Tôi đang chờ được mời đây,” Bà sống một mình và lại mê nấu ăn, mỗi lần tôi về đây, chúng tôi thường quy tụ ở căn nhà trệt ấm cúng của bà cách đây bốn khối nhà để ăn một bữa thật lâu. Bà thì lo cho sức khỏe và thói quen ăn uống lộn xộn của tôi. Mazy thì lo cho chuyện tình yêu của tôi, một thứ vốn không tồn tại và cũng chẳng làm tôi bận lòng.