← Quay lại trang sách

Chương 6

Tám năm qua Quincy ở Cơ sở Cải huấn Garvin, gần thị trấn nông thôn Peckham, cách Orlando tầm một tiếng lái xe về phía Bắc. Cách đây bốn tháng tôi đã đến đây lần đầu tiên, với danh nghĩa một linh mục làm việc mục vụ. Hồi đó, tôi mặc áo sơ-mi đen có cổ áo linh mục. Khi khoác lấy thân phận linh mục tôi được tôn trọng hơn nhiều so với lúc làm luật sư, ít ra là ở các nhà tù.

Hôm nay tôi lại đeo cổ áo linh mục, chỉ để cho họ một vố đau. Vicki đã lo xong giấy tờ, và tôi chính thức là luật sư của Quincy. Viên quản giáo ở bàn tiếp tân hết nhìn giấy tờ lại nhìn lên cổ áo linh mục của tôi, có lẽ vô cùng thắc mắc nhưng quá rối không dám hỏi. Tôi nộp điện thoại, đi qua máy quét an ninh, rồi chờ một tiếng trong phòng đợi, lần giở mấy tạp chí lá cải và tự vấn không biết thế giới này sẽ đi về đâu. Cuối cùng, cũng có một quản giáo đến dẫn tôi ra khỏi tòa nhà chờ, đi dọc theo một lối hẹp với hai bên là hàng rào kẽm gai. Tôi đã vào nội vi nhiều nhà tù rồi, và không còn thấy sốc vì cảnh khắc nghiệt ở những nơi này nữa. Không hiểu sao, chúng đều giống hệt nhau, với những khối nhà bê tông không cửa sổ, sân chơi đầy những con người trong bộ đồ giống hệt nhau đang cố giết thời gian, các quản giáo thì lộ rõ vẻ khinh miệt vì tôi là kẻ xâm phạm nơi này để giúp đỡ cho những kẻ mạt hạng. Chúng tôi đi vào một tòa nhà khác, rồi vào một căn phòng dài với dãy buồng nhỏ. Quản giáo mở cửa một buồng mời tôi vào.

Quincy đã ngồi chờ ở đó, phía sau một tấm mica dày. Cánh cửa buồng khép lại để chúng tôi lại một mình. Như để cản trở giao tiếp hết sức có thể, tấm mica không hề có lỗ để truyền âm, và chúng tôi buộc phải nói chuyện bằng cái điện thoại cổ lỗ sĩ không biết có từ đời thuở nào. Nếu muốn chuyển giấy tờ cho thân chủ, tôi buộc phải gọi một quản giáo để anh ta xem xét trước rồi mới đi vòng qua bên kia giao.

Quincy cười và đấm nhẹ tay lên tấm mica. Tôi cũng chào lại như thế, đấy là kiểu bắt tay chính thức ở chỗ như thế này. Giờ anh đã 51 tuổi, nhưng nếu không nhìn mái tóc muối tiêu, có lẽ người ta chỉ nghĩ anh mới 40. Ngày nào anh cũng tập tạ, tập karate, cố tránh những món hại cơ thể mà nhà tù dọn cho, giữ thân hình gọn gàng và tập thiền. Anh cầm điện thoại lên, “Anh Post, trước hết, tôi muốn cảm ơn anh đã nhận vụ của tôi.” Mắt anh rườm rướm, nhưng rồi anh kìm được.

Ít nhất suốt 15 năm qua, Quincy chẳng có luật sư cũng chẳng có ai đại diện pháp lý cho mình, không một ai trong thế giới tự do này cố gắng chứng minh anh vô tội, Từ kinh nghiệm bao lâu nay, tôi biết rằng chuyện đó đè nặng lòng người ta đến mức không thể nào chịu nổi. Một bộ máy hủ hoại đã giam cầm anh, và không một ai đấu tranh chống lại bộ máy đó. Là một người vô tội ngồi tù, lòng anh đã quá nặng trĩu rồi, và khi không có tiếng nói, anh càng cảm thấy thật sự bất lực.

Tôi đáp lời, “Có gì đâu mà. Tôi vinh dự được ở đây. Hầu hết thân chủ đều chỉ gọi tên tôi, không cần trịnh trọng làm gì?

Anh lại mỉm cười. “Được. Thế thì cũng vậy với tôi nhé.”

“Giấy tờ đã xong xuôi cả, và giờ tôi chính thức biện hộ cho anh. Anh có thắc mắc gì không?”

“Có, tôi thấy anh giống nhà truyền giáo hay gì đó. Sao anh lại đeo cổ áo đó vậy?”

“Vì tôi là linh mục ở Giáo hội Giám nhiệm, và cổ áo này thường giúp tôi được tôn trọng hơn, hầu như là thế.”

“Chỗ chúng tôi cũng có một nhà truyền giáo hay đeo cổ áo này. Tôi thật chẳng hiểu vì sao.”

Hồi nhỏ, Quincy có theo Giáo hội Giám lý Phi châu, và đúng là hàng giáo sĩ của họ có đeo cổ áo này. Đến tuổi thiếu niên, anh đã bỏ đạo. Năm 18 tuổi, anh cưới bạn gái vì cô có thai, nhưng hôn nhân của họ chẳng vững bền. Họ có thêm hai người con nữa. Tôi biết tên tuổi, địa chỉ, chỗ làm việc của họ, và cũng biết là từ sau phiên tòa họ không nói chuyện với anh nữa. Vợ cũ thì làm chứng chống lại anh. Chỉ có người em trai độc nhất của anh, Marvis, một vị thánh thực sự, vẫn đến thăm anh mình hàng tháng, thỉnh thoảng lại gửi cho anh chút tiền.

Quincy còn sống đã là quá may mắn. Bồi thẩm da đen duy nhất đó đã cứu mạng anh. Không nhờ vậy, anh đã vào phòng hành hình trong cái thời Florida hăng hái thi hành tử hình rồi.

Như lâu nay vẫn vậy, tập hồ sơ của Hội Vệ nhân về vụ của Quincy dày hết cỡ, và chúng tôi biết tường tận về anh hết sức có thể.

“Vậy giờ ta sẽ làm thế nào, Post?” anh hỏi, nhoẻn cười.

“Ồ, nhiều việc lắm. Bắt đầu từ hiện trường vụ án và tiến hành điều tra lại tất cả.”

“Vụ việc đã từ lâu lắm rồi.”

“Phải, nhưng Keith Russo vẫn là người chết, và những người làm chứng chống lại anh vẫn còn sống. Chúng tôi sẽ tìm họ, cố lấy lòng tin của họ và xem thử giờ nói thế nào?

“Tên chỉ điểm đó thì sao?”

“Tôi cũng thấy ngạc nhiên khi gã ta chưa chết vì chơi thuốc. Huffey đã vào tù thêm lần nữa, lần này là ở Arkansas. Ở tuổi 40, gã đã ngồi tù 19 năm, tất cả đều do ma túy. Tôi sẽ đi gặp gã.”

“Không có chuyện Huffey nhận là đã nói láo đâu, anh cũng nghĩ thế nhỉ?”

“Có lẽ. Đám chỉ điểm khó đoán lắm. Dân chỉ điểm chuyên nghiệp xem nhẹ những lời chứng dối của mình. Ngoài anh ra, gã còn chỉ điểm ít nhất năm vụ khác, tất cả đều để kiếm thỏa thuận ngon lành với cảnh sát. Cứ khăng khăng bảo vệ lời đã khai với bồi thẩm đoàn đâu ích lợi gì cho gã.”

“Tôi không bao giờ quên cái lúc chúng đưa gã ta vào, tinh tươm sạch sẽ, sơ-mi trắng cà vạt. Lúc đầu tôi không nhận ra Huffey. Tôi chỉ ở chung buồng với gã mấy tuần, lại từ mấy tháng trước rồi. Và khi gã bắt đầu tuôn ra những lời thú tội bịa đặt, tôi chỉ muốn hét vào mặt tên này. Rõ ràng, cảnh sát đã mớm rất nhiều thông tin vụ án cho gã, từ chuyện cắt điện, đến cái đèn pin, đủ thứ. Nghe gã nói, tôi biết ngay mình đã bị gài. Tôi nhìn các bồi thẩm và thấy rõ là họ tin sái cổ. Tin hết, không chừa lời nào. Và anh biết sao không, Post? Tôi ngồi đó nghe Huffey nói mà lòng cay lắm. ‘Khốn nạn, gã chỉ điểm này đã thề nói sự thật. Và đáng ra thẩm phán phải bảo đảm mọi nhân chứng đều nói thật. Công tố viên biết thừa nhân chứng của mình nói dối, biết gã ta đang thỏa thuận với cảnh sát để cứu thân mình. Ai cũng biết cả, trừ đám đầu đất trong bồi thẩm đoàn.’”

“Tôi rất buồn khi phải thừa nhận với anh, đó chẳng phải chuyện lạ gì. Đám chỉ điểm trong tù ra tòa làm chứng suốt. Các nước văn minh khác đều cấm vụ này, nhưng ở đất nước này thì không.”

Quincy nhắm mắt lại, lắc đầu. “Khi gặp tên khốn nạn đó, cứ bảo là tôi chưa quên đâu.”

“Nghĩ chuyện trả thù đâu ích gì cho anh, Quincy. Chỉ thêm phí phạm sức lực.”

“Có lẽ thế thật, nhưng tôi có quá nhiều thời giờ để nghĩ đủ thứ chuyện mà. Anh định hỏi chuyện June luôn sao?”

“Nếu cô ấy chịu nói.”

“Tôi dám chắc là không.”

Vợ cũ của Quincy đã tái hôn, chỉ ba năm sau khi anh vào tù, rồi lại ly hôn, và giờ tái hôn thêm lần nữa. Frankie bảo cô ấy đang Tallahassee và giờ mang họ Walker. Rõ ràng, June đang rất ổn định bên Otis Walker, một thợ điện ở Đại học Bang Florida. Họ sống ở khu trung lưu da đen và đã có một đứa con với nhau. Cô đã có năm đứa cháu vốn gọi Quincy là ông, nhưng bản thân anh chưa bao giờ thấy mặt chúng, kể cả trên ảnh. Anh cũng chẳng thấy mặt cả ba đứa con từ sau phiên tòa. Hình ảnh về chúng trong anh vẫn là ba đứa con nít mấy tuổi, như thời gian đã ngưng đọng lại ngay thời điểm đó vậy.

“Tại sao cô ấy không nói chuyện với tôi chứ?” Tôi hỏi.

“Vì cô ta cũng làm chứng dối. Thôi nào, Post. Ai cũng nói dối hết mà, kể cả đám chuyên gia.”

“Tôi không chắc các chuyên gia có biết họ đang nói dối không. Chỉ là họ không xác định được vấn đề một cách khoa học, và đưa ra ý kiến tầm bậy.”

“Nói sao cũng được. Anh sẽ thấy ra thôi. Tôi biết quá rõ là June đã nói dối. Cô ta nói dối về chuyện đèn pin và khẩu súng, nói dối chuyện tôi ở thị trấn vào đêm xảy ra án mạng.”

“Nhưng tại sao cô ấy lại nói dối, Quincy?”

Anh lắc đầu, như thể tôi vừa hỏi một câu quá ngốc nghếch. Anh bỏ điện thoại xuống, đưa tay chùi mắt, rồi lại nhấc điện thoại lên. “Chúng tôi xung đột, Post à. Chúng tôi chưa bao giờ là của nhau, và ly hôn là chuyện chắc chắn phải xảy ra. Russo đã cho tôi một vố đau về điều kiện ly hôn, rồi tôi sa cơ, không trả nổi tiền chu cấp và nuôi con. Cô ta thì mất việc và đang lâm vào thế khó. Khi tôi khất nợ tiền chu cấp, cô ta kiện tôi hết lần này đến lần khác. Ly hôn đã tệ rồi, nhưng chuyện sau đó còn tệ hơn. Chúng tôi dần ghét nhau, ghét cùng cực. Khi bị bắt vì tội giết người, tôi đang thiếu cô ta cỡ 40 ngàn đô-la. Chắc giờ vẫn còn thiếu nhỉ? Ôi trời, cứ kiện tôi tiếp đi.”

“Vậy đó là trả thù?”

“Hận thì đúng hơn. Tôi chưa hề có súng, Post à. Cứ xem hồ sơ sẽ thấy.”

“Chúng tôi đã xem rồi. Chẳng có gì cả.”

“Thấy chưa.”

“Nhưng hồ sơ chẳng là gì cả, nhất là ở bang này. Có vô vàn cách để kiếm súng mà.”

“Anh tin ai, Post, tin tôi hay tin con đàn bà dối trá đó?”

“Quincy, nếu không tin anh, tôi đâu đến đây làm gì.”

“Tôi biết, tôi biết mà. Tôi hiểu được chuyện khẩu súng, nhưng tại sao cô ta lại nói dối cả chuyện cây đèn pin? Tôi chưa hề thấy cây đèn pin đó. Họ còn chẳng trình nó cho tòa được nữa là.”

“Nếu ta giả định là anh bị bắt, bị khởi tố, rồi bên công tố cẩn thận lên kế hoạch gài tội cho người vô tội, thì hẳn cảnh sát đã nhờ cậy June khai rằng cây đèn pin là của anh. Và cô ấy làm thế vì hận anh.”

“Nhưng nếu bị đẩy vào buồng tử tù, làm sao tôi trả nợ cho cô ta được chứ?”

“Hỏi hay lắm, anh đang bắt tôi cố hiểu suy nghĩ của cô ấy đấy.”

“Thôi, cho tôi xin. Đúng là điên thật.”

Chúng tôi cùng cười phá lên. Anh đứng dậy, cúi sát mặt vào tấm mica và hỏi, “Hôm nay anh ở đây bao lâu, Post?”

“Ba tiếng.”

“Hallelujah. Nói nghe này, Post. Buồng giam của tôi rộng mét tám dài ba mét, cũng vừa bằng cái hốc ta đang ngồi đây. Bạn cùng buồng của tôi là một thằng nhóc da trắng dân ngoại ô, chơi ma túy. Nó không xấu, làm bạn tù cũng được, nhưng anh tưởng tượng nổi sống đến mười tiếng một ngày cùng một con người khác trong cái chuồng bé tí là thế nào không?”

“Không.”

“Dĩ nhiên rồi, tôi nói luôn nhé, hơn một năm mà chúng tôi chẳng nói với nhau lời nào.”

“Tại sao không?”

“Vì không chịu nổi nhau. Tôi không có vấn đề gì với nó, Post ạ, nhưng chúng tôi quá khác nhau. Tôi nghe Motown, nó lại thích nhạc đồng quê. Tôi ngăn nắp gọn gàng kinh khủng, còn nó thì quá bừa bãi. Tôi chẳng chơi thuốc, nó thì gần như lúc nào cũng phê. Nói chừng đó được rồi. Xin lỗi vì lôi chuyện đó ra kể. Tôi ghét mấy kẻ hay than thở. Anh đến đây đúng là trên cả tuyệt vời, Post à. Anh không hiểu nổi đâu.”

“Tôi vinh dự được làm luật sư của anh, Quincy.”

“Nhưng tại sao? Anh đâu kiếm được nhiều tiền, phải chứ? Biện hộ cho mấy người như tôi đâu kiếm được gì nhiều?”

“Ta chưa có bàn chuyện phí luật sư, phải không nào?”

“Cứ gửi hóa đơn cho tôi. Rồi hẵng kiện tôi nhé.”

Chúng tôi lại cười phá lên, rồi anh ngồi xuống, kẹp điện thoại nơi cổ. “Tôi hỏi thật, ai trả công cho anh?”

“Tôi làm cho một tổ chức phi lợi nhuận, và đúng, tôi không kiếm được nhiều tiền. Nhưng tôi đâu làm vì tiền.”

“Xin Chúa chúc lành cho anh, Post.”

“Diana Russo đã làm chứng rằng anh đã đến văn phòng của vợ chồng họ và đe dọa Keith ít nhất là hai lần. Có đúng không?”

“Không. Tôi có đến văn phòng gã vài lần khi đang tiến hành ly hôn, nhưng khi có phán quyết, tôi chẳng đến nữa. Khi gã không chịu nói chuyện qua điện thoại, tôi có đến văn phòng gã một lần, và phải, tôi đã tính cầm theo cây gậy bóng chày mà moi óc gã ra. Nhưng cô tiếp tân ở phòng ngoài bảo gã không có ở văn phòng, đang đến tòa rồi. Tôi biết là nói dối, vì đã thấy xe của gã ở ngoài, một chiếc Jaguar đen sang chảnh, đỗ ngay sau văn phòng. Tôi biết cô ta nói dối, và định làm to chuyện luôn, nhưng rồi lại thôi. Tôi cố nhịn rồi bỏ về, không bao giờ đến đó nữa. Tôi thề, sự thật là thế, Post à. Tôi thề đấy. Diana đã nói dối, như mọi người khác.”

“Cô ấy làm chứng là anh đã gọi đến nhà họ vài lần và buông lời hăm dọa.”

“Lại dối trá nữa. Điện thoại có ghi lại hết mà, Post. Tôi đâu có ngu. Luật sư của tôi, Tyler Townsend, đã cố liên hệ công ty điện thoại để lấy danh sách cuộc gọi, nhưng Diana đã ra tay chặn đứng. Anh ấy đã cố xin trát tòa, nhưng chưa xin kịp thì xử xong rồi. Khi tôi đã bị tuyên án, thẩm phán không chịu phê chuẩn trát tòa nữa. Và chúng tôi chẳng bao giờ lấy được danh sách cuộc gọi. Nhân tiện, anh nói chuyện được với Tyler chưa?”

“Chưa, nhưng tôi dự định sẽ gặp. Chúng tôi biết anh ấy ở đâu.”

“Anh ấy là người tốt, Post à, quá tốt. Anh bạn trẻ đó đã tin tưởng tôi và đấu tranh đến hơi thở cuối cùng, một chiến binh thực sự. Tôi biết luật sư các anh nhiều lúc không hay ho gì, nhưng anh ấy là người tốt.”

“Anh có liên lạc gì với anh ấy không?”

“Không còn nữa, đã quá lâu rồi. Tyler có viết thư cho tôi trong mấy năm đầu, thậm chí cả sau khi bỏ nghề luật. Có lần anh ấy kể trong thư rằng vụ của tôi khiến anh mất hết tinh thần. Tyler biết tôi vô tội, và khi để thua vụ của tôi, anh ấy cũng mất niềm tin vào hệ thống tư pháp, nói rằng không muốn dính dáng gì đến nó nữa. Cách đây tầm mười năm, anh ấy có ghé thăm, tôi mừng lắm nhưng nó cũng gợi lại những ký ức buồn. Tyler đã khóc khi thấy tôi đấy, Post à.”

“Anh ấy có giả thuyết gì về hung thủ thật sự không?”

Quincy hạ điện thoại xuống, nhìn lên trần, như thể câu đó quá đụng chạm. Rồi anh cầm điện thoại và hỏi, “Anh nghĩ đường dây này đủ bảo mật không, Post?”

Luật pháp cấm nhà tù nghe lén cuộc trò chuyện giữa luật sư và thân chủ, nhưng chuyện đó không phải là không có. Tôi lắc đầu. Không.

“Tôi cũng thế. Nhưng tôi gửi thư cho anh thì bảo mật được, phải chứ?”

“Phải.” Nhà tù không được mở thư liên quan đến vấn đề pháp lý, và theo kinh nghiệm, tôi biết luật này họ không dám phá. Quá dễ để nhận ra thư đã bị người ta động vào hay chưa.

Quincy đưa tay ra dấu rằng anh sẽ nói chuyện này trong thư. Tôi gật đầu.

Suốt 22 năm qua, Quincy ở trong tù, một nơi được cho là an toàn tránh xa hiểm nguy từ bên ngoài, nhưng anh vẫn luôn lo lắng, nội chuyện đó đã khiến tôi ngộ ra nhiều điều. Keith Russo bị giết không phải là chuyện vô cớ. Có ai đó, không phải Quincy Miller, đã lên kế hoạch giết người, thực hiện rất chính xác, rồi thoát tội. Tiếp theo là gài tội thật gọn gàng và thấu đáo, một việc cần đến những tay dàn xếp âm mưu đầy tinh khôn, và đến giờ vẫn đang tiếp tục duy trì như vậy. Tìm được những kẻ đó có lẽ là việc bất khả thi, nhưng nếu không nghĩ rằng có thể chứng minh Quincy vô tội thì tôi đâu ngồi đây làm gì.

Chúng vẫn đang nhởn nhơ ngoài kia, và Quincy vẫn đang bồn chồn khi nghĩ đến chúng.

Ba tiếng đồng hồ trôi qua thật nhanh, và chúng tôi đã trao đổi được nhiều chuyện về anh, chẳng hạn như anh đọc hai hoặc ba quyển sách mỗi tuần, anh nghe tôi kể về những người được giải oan và rất phấn khích, anh mê nhạc Detroit thập niên 1960, anh có một cái tivi màu và tìm niềm vui nơi những trận đấu, thậm chí là các trận hockey, anh còn chửi rủa hệ thống cải huấn chẳng bận tâm mấy đến chuyện tái hòa nhập xã hội. Khi quản giáo gõ cửa, tôi tạm biệt Quincy và hứa sẽ quay lại. Chúng tôi đấm nắm tay với nhau trên tấm mica và anh cảm ơn tôi thêm lần nữa.