← Quay lại trang sách

Chương 10

Chuyên gia về vết máu làm chứng chống lại Quincy thật ra là một cựu thanh tra tội phạm ở Denver, tên Paul Norwood. Sau khi trực tiếp làm việc ở các hiện trường vụ án vài năm, ông ta quyết định rời ngành, mua vài bộ vest đẹp và chuyển sang làm nhân chứng chuyên gia. Paul Norwood bỏ ngang đại học và không có thời gian để học bằng tội phạm học hay bất kỳ thứ gì liên quan đến khoa học thực sự, thế là ông ta dự các hội nghị chuyên đề và hội thảo về pháp y, đọc sách và các bài báo của những chuyên gia khác. Ông ta nói năng rất dẻo, vốn từ phong phú và dễ dàng thuyết phục các thẩm phán rằng ông ta vô cùng am hiểu chuyên ngành này. Khi chính thức có chứng nhận chuyên gia pháp y, càng dễ dàng hơn cho ông ta trong việc thuyết phục các bồi thẩm đoàn ngơ ngác rằng ý kiến của ông ta dựa trên khoa học có cơ sở vững chắc.

Những loại người như Norwood không hiếm. Hồi thập niên 1980 và 1990, lời chứng của chuyên gia bùng nổ trong các phiên tòa hình sự, với đủ loại chuyên gia đầy thẩm quyền tự phong, vung vẩy những ý kiến vô quy tắc của họ trước mặt bồi thẩm đoàn. Chưa hết, các chương trình truyền hình thực tế về tội phạm còn minh họa những nhà điều tra pháp y này là siêu thám tử có thể giải quyết các vụ án phức tạp bằng loại khoa học không thể nào sai lầm. Những chuyên gia nổi tiếng nhất có thể xem xét một cái xác đẫm máu và tìm ra hung thủ trong một hai tiếng đồng hồ. Trong đời thực, hàng ngàn bị cáo đã bị kết tội và tống vào tù bởi những giả thuyết hời hợt về vết máu, đốm máu, công cụ phóng hỏa, vết cắn, kết cấu vải, thủy tinh vỡ, da đầu và lông vùng kín, dấu giày, đường đạn, thậm chí là vân tay.

Các luật sư biện hộ giỏi đã chất vấn độ khả tín của những chuyên gia này, nhưng hiếm khi có ai thành công. Các thẩm phán thường choáng ngợp trước khoa học và lại chẳng có mấy thời gian để tự tìm hiểu. Nếu một nhân chứng mới có chút chuyên ngành và dường như nắm rõ sự việc, thì liền được phép lên làm chứng. Qua thời gian, các thẩm phán mặc định nguyên tắc rằng vì một nhân chứng đã được xác nhận là chuyên gia ở phiên tòa khác tại một bang khác, nên chắc chắn tư cách chuyên gia đó là xác thực. Các phiên tòa phúc thẩm cũng hùa theo, khi xác nhận cáo buộc mà không nghiêm túc chất vấn độ khả tín của phương pháp pháp y, thế là họ lại tiếp tay nâng thanh thế của mấy chuyên gia này lên cao hơn nữa. Hồ sơ lý lịch càng dày, thì càng dễ tuôn ra những giả thuyết có tội.

Paul Norwood càng ra làm chứng nhiều, thì càng có vẻ là người thông minh. Một năm trước phiên tòa của Quincy, Norwood đã tham dự một hội nghị chuyên đề 24 tiếng về phân tích vết máu do một công ty tư nhân ở Kentucky tổ chức. Ông ta đã xong khóa học, nhận tấm bằng chứng minh cho hiểu biết của mình, và thêm một chuyên ngành nữa để đi lòe thiên hạ. Ông ta sớm khiến các bồi thẩm kinh ngạc trước kiến thức khoa học về nhiều hình thái phức tạp mà máu bắn ra ở những hiện trường kinh khủng. Chuyên môn của ông ta là máu, tái dựng hiện trường vụ án, đạn đạo, và phân tích mẫu tóc. Ông ta quảng cáo rầm rộ, bắt tay với các công tố viên và cảnh sát, thậm chí còn viết sách về pháp y. Danh tiếng của ông ta ngày càng tăng, đi kèm là đòi hỏi thù lao rất lớn.

Trong suốt 25 năm làm nghề này, Norwood đã ra làm chứng ở hàng trăm phiên tòa hình sự, lúc nào cũng đứng về phía công tố viên và buộc tội bị cáo, và lúc nào cũng nhận thù lao hậu hĩnh.

Rồi xét nghiệm ADN xuất hiện và tàn phá việc làm ăn của ông. Xét nghiệm ADN không chỉ thay đổi tương lai của điều tra tội phạm mà còn khiến người ta phải xem lại thứ khoa học rởm mà Norwood và đồng nghiệp của ông đang vung vẩy. Trong ít nhất một nửa các vụ được giải oan nhờ ADN, định tội ban đầu của họ đều dựa chủ yếu vào chứng cứ do công tố viên đưa ra.

Nội trong năm 2005, ba vụ kết án dựa trên lời chứng của Norwood đã bị xét nghiệm ADN lật ngược, đồng thời vạch trần lời chứng và phương pháp giả mạo của ông ta. Tổng cộng ba nạn nhân này đã chịu 59 năm tù, một người là tử tù. Ông ta đã nghỉ hưu sau khi bị dồn ép ở một phiên tòa vào năm 2006. Trong phiên đối chất, sau khi đưa ra phân tích vết máu như thường lệ, ông ta đã bị vạch mặt dữ dội hơn bao giờ hết. Luật sư biện hộ đã kể tỉ mỉ về ba người được giải oan hồi năm ngoái. Câu hỏi anh đặt ra rất sắc sảo, khốc liệt, và phơi bày rõ ràng mọi chuyện. Sau đó, bị cáo được phán vô tội, và hung thủ thật sự đã bị bắt. Thế là Norwood đành từ bỏ cuộc chơi.

Những hậu quả thì vẫn còn dài. Quincy Miller đã bị kết tội vì phân tích của Norwood về vết máu trên cây đèn pin mà ông ta chưa hề tận mắt xem xét, Phân tích có vẻ sắc sảo của ông ta chủ yếu dựa trên những tấm ảnh chụp cây đèn pin và hiện trường vụ án. Ông ta chưa hề trực tiếp xem xét bất kỳ chứng cứ quan trọng nào, hoàn toàn chỉ trên ảnh. Thế mà ông ta vẫn khăng khăng làm chứng rằng vết máu trên mặt kính đèn pin được bắn ra từ phát súng đã giết Keith Russo.

Nhưng cây đèn pin thì đã biến mất trước phiên tòa.

Norwood không chịu nói chuyện với tôi về vụ án. Tôi đã viết thư hỏi ý ông ta hai lần. Ông trả lời một lá, nói rằng không muốn bàn đến chuyện này, trên điện thoại cũng không. Ông nói hiện không khỏe, vụ này lại lâu quá rồi, trí nhớ suy giảm của ông không giúp gì được, vân vân và vân vân. Và chuyện này không phải chỉ vì tránh mặt tôi hay vụ này đâu. Đến giờ, ít nhất sáu lời chứng của Norwood đã bị vạch trần là giả mạo, và ông thường bị lôi ra làm ví dụ cho kiểu tác oai tác quái của khoa học rởm. Các luật sư chống án tử hình liên tục công kích ông ta. Thậm chí Norwood còn bị kiện. Các blogger rủa sả ông ta đã gây nên bao cảnh khổ. Các thẩm phán phúc thẩm thì oán giận sự nghiệp tội lỗi của ông ta. Một nhóm ủng hộ người vô tội đã cố gây quỹ để xem xét lại toàn bộ các vụ Norwood từng ra làm chứng, nhưng số tiền đó quá lớn không dễ gì kiếm được. Tôi mong ông ta bác bỏ hết những lời chứng của mình và cố giúp Quincy, nhưng cho đến giờ, Norwood không tỏ vẻ gì là hối hận.

Có hay không có Norwood, chúng tôi vẫn phải thuê chuyên gia pháp y riêng, mà những người giỏi nhất thì phí cao lắm.

Tôi ở lại Savannah vài ngày để xử lý chuyện này. Vicki, Mazy và tôi vào phòng họp, bàn luận về pháp y. Trên bàn là hồ sơ của bốn ứng viên cuối cùng. Tất cả đều là chuyên gia tội phạm học với uy tín hoàn hảo. Chúng tôi sẽ chọn ra hai người và gửi hồ sơ vụ án cho họ. Người lấy giá rẻ nhất là 15.000 đô-la để xem xét và cố vấn. Người lấy giá đắt nhất là 30.000, miễn thương lượng. Việc giải oan đã nở rộ trong thập kỷ qua, những người này được các nhóm ủng hộ người chịu án oan trọng vọng.

Người mà chúng tôi đánh giá giỏi nhất trong số này, là Tiến sĩ Kyle Benderschmidt ở Đại học Thịnh vượng chung Virginia tại Richmond. Ông đã giảng dạy hàng chục năm rồi và còn lập một khoa pháp y danh tiếng hàng đầu cả nước. Tôi đã hỏi chuyện các luật sư khác, ai cũng khen ngợi ông ấy.

Chúng tôi cố để dành hạn mức 75.000 đô-la để trả cho các chuyên gia, thám tử tư, và luật sư khi cần thiết. Chúng tôi không thích trả tiền cho luật sư lắm, và dần dà khá là giỏi trong việc năn nỉ người ta rủ lòng thương mà làm không công. Hội có cả một mạng lưới như thế rải rác khắp cả nước. Một vài chuyên gia sẽ giảm giá để giúp người vô tội, nhưng hiếm lắm.

Giá tiêu chuẩn của Benderschmidt là 30.000 đô-la. “Ta có chừng đó không?” Tôi hỏi Vicki.

“Dĩ nhiên là có,” bà nói với nụ cười lạc quan như lâu nay vẫn vậy. Nếu không có, bà sẽ nhấc điện thoại réo gọi vài nhà hảo tâm.

“Thế thì thuê ông ấy đi.” Mazy gật đầu đồng ý với tôi. Chốt được người chính rồi, chúng tôi chuyển sang chọn người thứ hai.

Mazy bảo, “Có vẻ vụ này anh cũng khởi đầu chậm chạp rồi, Post à. Anh rơi vào ngõ cụt với June Walker, Zeke Huffey và Carrie Holland. Đến giờ vẫn chưa có ai muốn nói chuyện với anh.”

Như ở bất kỳ văn phòng nào, Hội Vệ nhân cũng có kiểu trêu chọc tốt tính. Vicki và Mazy phối hợp ăn ý lắm, đồng thời cũng biết ý không chọc ngoáy nhau nhiều. Thế nên mỗi khi về đây, tôi lại thành con mồi ngon cho họ. Nếu không phải đã hiểu nhau rõ, chắc nhiều khi tôi vặc lại quá.

Tôi bật cười nói, “Nói cũng đúng. Mà cô nhớ có lần nào ta khởi đầu trót lọt chưa vậy?”

“Ta là rùa, đâu phải thỏ,” Vicki trả lời bằng câu ví von yêu thích của mình.

“Phải,” tôi nói. “Mất ba năm ta mới bắt tay vào vụ này mà. Thế mà muốn một tháng là giải oan xong à?”

“Nhưng cũng phải có được gì chứ,” Mazy lại vặn vẹo.

“Tôi chưa chạm đúng huyệt thôi.”

Mazy đành cười trừ. “Thế khi nào anh đi Seabrook?

“Chẳng biết. Tôi đang cố kín tiếng càng lâu càng tốt. Ở đó chẳng ai biết ta đang vào việc, và tôi muốn ẩn thân hơn.”

“Anh thấy sợ đến mức nào?” Vicki hỏi.

“Khó nói lắm, nhưng chắc chắn là có sợ. Nếu Russo đã dây vào một băng ma túy, thì chúng vẫn còn ở đó. Kẻ giết người thuộc băng đó. Tôi mà xuất hiện, chúng sẽ biết ngay.”

“Thế thì quá mạo hiểm, Post,” Mazy nói.

“Phải, nhưng hầu như vụ nào ta làm cũng có mạo hiểm mà. Thân chủ của ta phải vào tù vì có kẻ giật dây. Chúng vẫn nhởn nhơ ngoài kia, cười nhạo vì cảnh sát bắt nhầm người. Chúng tuyệt đối đâu muốn có luật sư giải oan lật lại vụ án cũ này.”

“Nhưng cẩn thận vẫn hơn,” Vicki dặn tôi. Rõ ràng hai người họ rất lo lắng dù không thể hiện ra.

“Tôi luôn cẩn thận mà. Tối nay bà nấu gì thế?”

“Xin lỗi nhé. Tìm trong tủ lạnh ấy.”

“Có pizza nguội đấy,” Mazy nói. Cô không thích nấu ăn, mà lại có đến bốn đứa con nên chủ yếu dùng toàn đồ ăn đông lạnh.

“James có đây không?” Tôi hỏi. Mazy và chồng ly thân vài năm rồi và đã cố ly hôn. Nhưng ly hôn không được, mà sống chung cũng không xong. Cô biết tôi thật lòng quan tâm và không phải loại lắm chuyện.

“Anh ấy cứ đến chơi với bọn trẻ một chút rồi đi.”

“Tôi cầu nguyện cho nhà cô.”

“Tôi biết mà, Post. Và chúng tôi cũng cầu nguyện cho anh.”

Tính tôi cẩu thả hay quên, thường để đồ ăn ôi thiu suốt, nên tôi chẳng để dành đồ ăn trong phòng mình làm gì. Vì không kiếm được đồ ăn từ hai đồng nghiệp nên tôi làm việc đến khi trời tối rồi đi bộ vào trung tâm thành phố. Còn hai tuần nữa là Giáng Sinh và trời đang dần mát. Tôi ở Savannah hơn chục năm mà chẳng biết nhiều về thành phố này. Tôi đi xa quá nhiều nên chẳng thưởng thức được vẻ đẹp và lịch sử của chốn này, cộng thêm lối sống nay đây mai đó nên khó mà kết bạn thâm giao với ai. Nhưng người bạn đầu tiên của tôi tại đây đang ở nhà và mong có người bầu bạn.

Cha Luther Hodges tuyển tôi sau khi tôi rời chủng viện và mời tôi đến Savannah. Cha đã về hưu, vợ cha vừa qua đời vài năm trước. Cha đang sống trong căn nhà nhỏ của giáo phận, cách Quảng trường Chippewa hai khối nhà. Khi tôi đến, cha đã chờ trước hiên, háo hức chạy ra.

“Chào cha,” tôi lên tiếng, vừa ôm cha.

“Chào con trai,” cha hồ hởi. Lúc nào gặp nhau chúng tôi cũng vậy.

“Trông con hơi ốm,” cha hỏi thăm. Cha lo về lối sống của tôi, ăn uống lộn xộn, ngủ ít, căng thẳng.

“Cha thì ngược lại rồi,” tôi nói. Cha vỗ bụng, “Cha không kiêng món kem được.”

“Con đói lắm rồi. Mình đi thôi.”

Chúng tôi khoác tay nhau đi dọc Phố Whitaker. Cha Luther đã gần 80, mỗi lần đến thăm, tôi lại thấy cha chậm chạp hơn một chút. Cha hơi khập khiễng, đầu gối gần như hỏng rồi, nhưng cha nói chỉ mấy ông bà cụ mới phải thay khớp gối. “Không được để mình già,” là câu cửa miệng của cha.

“Lâu nay con ở đâu?” cha hỏi.

“Như lâu nay vẫn vậy. Rày đây mai đó.”

“Kể về vụ con đang làm đi,” cha hỏi. Cha thích thú với công việc của tôi và muốn tìm hiểu nhiều. Cha biết tên những người được Hội biện hộ và theo dõi diễn biến các vụ này trên mạng.

Tôi kể về Quincy Miller và khởi đầu chậm chạp của chúng tôi như thường lệ. Cha chăm chú lắng nghe và không nói gì nhiều, lâu nay vẫn vậy. Trong chúng ta, có mấy người có bạn tâm giao thực sự thích việc ta làm và sẵn sàng lắng nghe ta kể hàng tiếng đồng hồ? Tôi thật có phúc vì có cha Luther.

Tôi kể thật nhiều nhưng không nói đến những chuyện tuyệt mật, rồi hỏi thăm tình hình cha. Hằng ngày, cha dành nhiều giờ viết thư cho những người đang ở tù. Đây là việc mục vụ mà cha vô cùng tận tâm. Cha lưu giữ kỹ lưỡng mọi thư từ và bản sao. Nếu được vào danh sách của cha Luther, thế nào bạn cũng được nhận thiệp mừng sinh nhật và Giáng Sinh. Nếu có tiền, chắc cha gửi hết cho các tù nhân rồi.

Hiện giờ, cha đang thư từ với 60 người. Một người mới chết tuần trước. Một thanh niên ở Missouri đã treo cổ tự tử, và giọng cha nghẹn lại khi nói đến chuyện đó. Cậu ấy đã nói đến chuyện tự tử mấy lần trong những lá thư, và cha Luther rất lo. Cha đã gọi cho nhà tù nhiều lần để nhờ họ hỗ trợ, nhưng chẳng ích gì.

Chúng tôi đi về phía sông Savannah, rảo bộ dọc con đường lát đá bên bờ sông. Ở đấy có một tiệm hải sản có tuổi đời mấy chục năm mà chúng tôi rất kết. Lần đầu tôi đến đây, cha Luther đã mời ăn trưa ở đó. Đến bậc cửa, cha nói trước, “Cha mời nhé.”

Cha biết thừa tôi chẳng có mấy tiền. “Cung kính không bằng tuân mệnh,” tôi đáp lời.