← Quay lại trang sách

Chương 11

Đại học Thịnh vượng chung Virginia là đại học chính của thành phố và gần như chiếm trọn khu trung tâm của Richmond. Vào một chiều tháng Một, tôi tìm đến Khoa Pháp y ở Phố Chính Tây. Kyle Benderschmidt làm trưởng khoa đã hơn hai chục năm và nắm toàn quyền nơi này, Phòng làm việc của ông chiếm nguyên một phần tầng nhà này. Tôi ngồi chờ, nhấm nháp ly cà phê cô thư ký pha mời. Sinh viên cứ đến rồi đi. Đúng 3:00 chiều, nhà tội phạm học lừng danh xuất hiện, chào đón tôi với nụ cười thân thiện.

Tiến sĩ Benderschmidt đã ngoài bảy mươi tuổi, dáng người gọn gàng đầy sức sống và vẫn ăn mặc như thời ông còn là sinh viên. Quần kaki hồ phẳng phiu, giày penny loafer, áo sơ-mi cài khuy cổ. Dù công việc chuyên gia rất bận rộn, nhưng ông vẫn mê giảng đường và dạy hai tín chỉ mỗi học kỳ. Ông không thích phòng xử án và cố tránh phải ra làm chứng. Ông và tôi đều biết để đưa vụ của Quincy ra tòa xử lại hẳn phải mất nhiều năm trời. Thường thì ông xem lại vụ án, tìm hiểu, cố vấn, rồi để luật sư xử lý tiếp, còn mình thì chuyển sang vụ khác.

Tôi theo chân ông vào một phòng họp nhỏ. Trên bàn là chồng tài liệu tôi đã gửi cho ông ba tuần trước, ảnh và số liệu về hiện trường vụ án, ảnh chụp cây đèn pin, báo cáo mổ tử thi, và toàn bộ biên bản phiên tòa dài gần 1.200 trang.

Tôi chỉ đống giấy tờ, “Ông nghĩ thế nào?”

Ông cười, lắc đầu. “Tôi đọc hết rồi, và không rõ vì sao mà anh Miller lại bị kết tội. Nhưng chuyện này không phải hiếm. Đã có chuyện gì với cây đèn pin vậy?”

“Có hỏa hoạn ở phòng chứng cứ. Chẳng bao giờ tìm lại được nó.”

“Tôi biết, tôi đọc phần đó rồi. Nhưng chuyện thực sự đã xảy ra ấy.”

“Tôi chưa biết. Chúng tôi chưa điều tra về vụ hỏa hoạn, và có lẽ chẳng bao giờ làm được.”

“Vậy cứ cho là chủ tâm phóng hỏa, có ai đó muốn cây đèn pin biến mất. Không có gì cho thấy anh Miller liên quan đến chuyện này. Vậy cảnh sát được gì khi tiêu hủy nó và không để bồi thẩm đoàn tiếp cận chứng cứ?”

Tôi bỗng cảm thấy như mình đang bị đối chất trước tòa vậy. “Ông hỏi hay lắm,” tôi nói và nhấp chút cà phê. “Vì ta vẫn đang giả định thôi, nên cứ cho là cảnh sát không muốn một chuyên gia bên bị cáo xem xét nó.”

“Nhưng bên bị làm gì có chuyên gia,” ông nói.

“Dĩ nhiên là không có. Bị cáo đang trong cảnh túng quẫn, luật sư thì do tòa chỉ định mà. Thẩm phán từ chối chi tiền cho chuyên gia của bên bị. Có lẽ cảnh sát dự tính được thế rồi, nhưng vẫn quyết định loại bỏ nó cho chắc ăn. Họ cho là thế nào cũng tìm được một kẻ như Norwood, sẵn sàng đứng ra phân tích và ức đoán dựa trên mấy tấm ảnh.”

“Tôi cho thế là hợp lý.”

“Ta chỉ đang đoán thôi, tiến sĩ à. Cho đến giờ, ta chỉ làm được vậy. Và có lẽ những vết máu đó là của người khác cũng nên.”

“Chính xác,” ông mỉm cười ý vị, như thể vừa khám phá ra gì đó. Ông lôi ra một tấm ảnh màu phóng to mặt kính năm centimet của cây đèn pin. “Bên tôi đã xem xét ảnh này bằng mọi công cụ phóng to khả dụng. Tôi và cả các đồng nghiệp. Tôi không chắc mấy vết này là máu người, thậm chí còn không phải là máu.”

“Nếu không phải máu thì là gì?”

“Không cách nào biết được. Điểm đáng quan tâm là cây đèn pin này không được lấy từ hiện trường vụ án. Ta không biết nó từ đâu ra, cũng như chuyện máu, hay thứ gì đó, đã bắn lên mặt kính như thế nào. Với chứng cứ hạn chế như thế này, không thể nào xác định được gì.”

“Nếu máu bắn ngược lại, chẳng phải sẽ dính lên cả hung thủ và khẩu súng sao?”

“Khả năng cao là thế, nhưng không chắc chắn được. Chẳng tìm được khẩu súng hay áo quần của hung thủ. Nhưng dựa vào vết đạn, thì đó là khẩu shotgun. Hai phát đạn trong không gian hẹp thì nhiều máu bắn tung tóe lắm. Tôi cho là ảnh hiện trường đã chứng minh rõ thế rồi. Điều tôi thấy ngạc nhiên là không có dấu chân của hung thủ khi hắn đi ra.”

“Không thấy ghi lại gì về cái đó.”

“Thế thì tôi cho rằng hung thủ đã rất thấu đáo trong việc che giấu hành tung. Không có vân tay, nên có lẽ hắn đã mang găng tay. Không có dấu giày gì, nên có lẽ hắn đã dùng gì đó bọc lại dưới chân. Có vẻ là một sát nhân khá thành thạo.”

“Có thể là vụ băng đảng thanh trừng, do sát thủ chuyên nghiệp làm.”

“Đấy là việc của anh. Tôi không lo đến mức đó.”

“Có thể nào một tay bắn shotgun, một tay cầm đèn pin không?” tôi hỏi, dù câu trả lời khá rõ ràng rồi.

“Khả năng cao là không. Nhưng đây là một đèn pin nhỏ, mặt kính năm centimet, nên vẫn có thể. Có thể một tay vừa cầm đèn pin vừa giữ nòng súng. Như thế là thuận theo giả thuyết của công tố viên rồi. Nhưng tôi vô cùng nghi ngờ chuyện cây đèn pin từng xuất hiện ở hiện trường.”

“Nhưng Norwood đã làm chứng rằng vết trên đèn pin là máu bắn vào.”

“Norwood lại sai nữa rồi. Lão nên vào tù giùm tôi cái.”

“Vậy là hai người từng va chạm?”

“Phải. Hai lần. Tôi đã vạch trần lời chứng của gã hai lần, nhưng hai bị cáo đó hiện giờ vẫn đang ở tù. Thời xưa Norwood lừng lẫy trong ngành của lão lắm, cái thời đầy rẫy bọn đó. Ơn trời, lão rút rồi, nhưng vẫn còn rất nhiều kẻ như thế đang tác oai tác quái. Tôi đến là ghê tởm chúng.”

Benderschmidt đã chỉ trích dữ dội các hội nghị chuyên đề thời lượng một tuần để đào tạo cho cảnh sát, điều tra viên hay bất kỳ ai có tiền để tham dự chớp nhoáng, lấy bằng, rồi tự nhận mình là chuyên gia.

Ông nói tiếp, “Lão không có chút lương tri trách nhiệm nào, khi bảo bồi thẩm đoàn rằng mấy vết đó là máu, còn là máu của Russo nữa chứ.” Ông lắc đầu, thể hiện sự chán ghét. “Đơn giản là không có phương pháp khoa học nào chứng minh được điều đó cả.”

Norwood bảo bồi thẩm đoàn rằng vết máu bắn ra trong không khí không thể bay xa hơn 1m2, thời đó hầu như ai cũng tin vậy. Do đó, phát súng hẳn phải ở cự ly rất gần. Nhưng Benderschmidt khẳng định sự thật không phải vậy. Khoảng cách máu bắn đi ở mỗi phát súng mỗi khác, thậm chí là rất khác, nên khi Norwood nói chắc nịch như vậy là lầm to. “Vấn đề là xác suất thay đổi quá lớn, nên không thể xác định chắc chắn được.”

“Vậy ý ông thì sao?”

“Lời Norwood nói trước tòa hoàn toàn không có căn cứ khoa học nào. Không có cách nào để biết liệu cây đèn pin có hiện diện ở hiện trường vào thời điểm gây án không. Khả năng cao là những vết đó còn chẳng phải máu. Nhiều ý kiến khác nhau lắm, anh Post. Tôi sẽ viết lại thật rành mạch rõ ràng tuyệt đối.”

Ông nhìn đồng hồ rồi cáo lỗi phải đi gọi một cuộc điện thoại. Ông đi rồi, tôi ghi chú lại vài điều, vài câu hỏi mà tôi không giải đáp được. Cả ông cũng thế, nhưng ý kiến của ông rất có giá trị. Dù gì tôi cũng đang trả tiền cho chúng. Mười lăm phút sau, ông trở lại, tay cầm tách cà phê.

“Ông nói thêm về suy nghĩ của mình đi?” tôi hỏi. “Tạm gác lại khoa học, và suy đoán chút nhé.”

“Thế cũng vui đâu kém gì khoa học,” ông cười. “Vấn đề đầu tiên. Nếu cảnh sát gài cây đèn pin vào thùng xe của Miller, tại sao họ không gài luôn cây shotgun cho rồi?”

Bản thân tôi cũng đã thắc mắc chuyện này cả trăm lần. “Có lẽ họ lo khó mà chứng minh khẩu súng là của anh ấy. Tôi chắc chắn đó là súng không được đăng ký. Hoặc có lẽ gài súng thì khó hơn. Đèn pin thì nhỏ và dễ thả vào đó hơn nhiều. Viên cảnh sát trưởng, Pfitzner, đã làm chứng rằng mình tìm thấy nó khi khám xét thùng xe. Và còn có mấy cảnh sát khác tham gia buổi khám xét đó.”

Ông lắng nghe chăm chú và gật đầu theo lời tôi nói. “Có vẻ hợp lý.”

“Rất dễ để lấy cây đèn pin trong túi ra và thả vào thùng xe. Nhưng với khẩu shotgun thì không.”

Ông lại tiếp tục gật đầu. “Tôi thấy thế là hợp lý. Vấn đề thứ hai: Theo lời tay chỉ điểm, Miller kể rằng hôm sau đó đã lái xe đến vịnh và ném khẩu shotgun xuống biển. Sao không ném luôn cây đèn pin cho xong? Cả hai đều xuất hiện ở hiện trường. Cả hai đều dính máu mà. Không phi tang cả hai thì quá vô lý.”

Tôi trả lời, “Tôi không có cách nào giải đáp hợp lý vấn đề này, và đấy là lỗ hổng lớn trong kịch bản mà cảnh sát mớm cho gã chỉ điểm.”

“Và tại sao lại phi tang súng ở nơi nước nông và có thủy triều lên xuống?”

“Thật vô lý,” tôi nói.

“Đúng thế. Một vấn đề nữa: Sao lại dùng shotgun? Nó nổ quá to. Không ai nghe thấy tiếng súng đúng là chuyện ngàn năm có một.”

“Carrie Holland nói có nghe thấy gì đó, nhưng cô ấy không đáng tin. Họ dùng shotgun vì đó là loại súng mà người như Miller hay dùng, có lẽ thế. Dân chuyên nghiệp hẳn sẽ dùng súng lục có giảm thanh, nhưng họ đâu muốn gài tội sát thủ. Họ muốn Miller chịu tội mà.”

“Tôi cũng nghĩ thế. Miller có đi săn không?”

“Hoàn toàn không. Anh ấy nói chưa hề đi săn bao giờ.”

“Anh ấy có súng không?”

“Miller nói trong nhà mình có hai khẩu súng lục để tự vệ. Cô vợ thì làm chứng là chồng mình có shotgun, nhưng cô ấy cũng không đáng tin.”

“Anh giỏi đấy, Post.”

“Cảm ơn ông. Tôi có chút kinh nghiệm thực địa. Ông cũng vậy, tiến sĩ Benderschmidt. Ông nắm rõ vụ án rồi, tôi muốn nghe suy đoán của ông, theo kiểu hàn lâm ấy. Tạm gác khoa học lại, và thử nói đến vụ giết người theo hình dung của ông được không?”

Ông đứng lên, bước ra cửa sổ và nhìn xa xăm. “Vụ này có tính toán kỹ lưỡng, anh Post à, và chính vì thế anh khó mà phá được nó, chắc phải có phép lạ mới phá nổi. Diana Russo có câu chuyện quá thuyết phục về xung đột giữa Miller và chồng mình. Tôi cho là cô ấy đã thổi phồng quá mức, nhưng bồi thẩm đoàn tin cô ấy. Cô ấy cáo buộc một người da đen ở thành phố da trắng. Lại là một người có động cơ gây án. Những kẻ chủ mưu am hiểu đủ về chứng cứ hình sự để dùng cây đèn pin gài tội Miller. Hung thủ thật sự không để lại dấu vết nào, và như thế là đủ để thấy tầm mưu tính của hắn rồi. Nếu hắn có phạm sai lầm gì đó, hẳn cảnh sát đã không thấy được hay thậm chí là che đậy giúp. Sau 22 năm, rõ ràng đây là một vụ hoàn toàn bế tắc, không thể nào phá nổi. Anh không tìm được hung thủ đâu, anh Post, nhưng có lẽ anh sẽ chứng minh được thân chủ mình vô tội.”

“Có khả năng anh ấy có tội không?”

“Vậy là anh vẫn còn hoài nghi?”

“Luôn như thế. Hoài nghi đến ám ảnh.”

Ông quay lại bàn, nhấp chút cà phê. “Tôi thì không thấy thế. Động cơ quá yếu để giết người. Chắc chắn, anh Miller ghét luật sư cũ của mình, nhưng có đáng để vào buồng tử tù không? Anh Miller còn có chứng cứ ngoại phạm. Chẳng có gì liên hệ anh ấy với hiện trường vụ án. Suy đoán khoa học của tôi là anh ấy không phải hung thủ.”

“Thật mừng khi nghe thế,” tôi mỉm cười đáp lời. Ông là người luôn theo lý trí, không có kiểu động lòng thương hại, và ra làm chứng cho bên công tố nhiều hơn bên bị cáo. Ông nói thẳng và khi bất đồng, ông không ngại chỉ trích các chuyên gia khác, thậm chí cả đồng nghiệp. Chúng tôi nói chuyện thêm ít phút về các vụ án khác có liên quan đến vết máu, rồi cũng đến giờ tôi phải ra về.

“Cảm ơn, tiến sĩ. Tôi biết thời gian của ông vô cùng quý giá.”

“Các anh trả cho nó mà,” ông mỉm cười. Phải, 30.000 đô-la.

Khi tôi ra đến cửa, ông nói thêm, “Một chuyện nữa thôi, anh Post, và nói hơi ngoài chuyên môn của tôi, nhưng vụ này có thể rất căng đấy. Dù không phải việc của tôi, nhưng tôi muốn khuyên anh, nên cẩn thận thì hơn.”

“Cảm ơn ông.”