← Quay lại trang sách

Chương 12

Tôi lên đường đến địa điểm tiếp theo trong lịch trình. Chỗ đó tên là Tully Run, ẩn dưới chân Rặng Blue Ridge ở phía Tây Virginia. Đây là lần thứ hai tôi ghé nơi này. Nhờ phước Internet, hiện giờ cả nước có đến vài trăm ngàn tội phạm tình dục bị tuyên án. Vì nhiều lý do, họ không ổn lắm khi ở nhà tù chung. Hầu hết các bang đều giam họ ở nhà tù riêng. Virginia thì cho hết đám này vào Tully Run.

Người tôi cần gặp tên Gerald Cook. Da trắng, 43 tuổi, lãnh án 20 năm vì quấy rối hai cô con gái riêng của vợ. Vì được lựa chọn giữa rất nhiều thân chủ gửi gắm, nên tôi luôn cố tránh dính líu đến những tội phạm tình dục. Tuy nhiên, trong ngành này, tôi đã biết được rằng một số họ cũng vô tội.

Thời trẻ, Cook rất phóng túng, lỗ mãng, uống bạt mạng, hay đánh nhau và mê tán gái. Chín năm trước, anh tán nhầm người và phải cưới. Họ bên nhau được vài năm khốn khổ, hợp tan liên tục. Cả hai đều không ổn định trong công việc, lúc nào cũng thiếu tiền. Một tuần sau khi vợ anh đệ đơn ly hôn, Gerald thắng giải xổ số bang được 100.000 đô, và cố giữ kín chuyện này. Nhưng cô ta biết chuyện ngay lập tức và đám luật sư của cô ta liền lồng lên. Gerald bèn ôm tiền bỏ đi, vụ ly hôn bị đình lại. Để khiến anh phải chú ý, hoặc thật ra là để kiếm chút đỉnh, cô ta lên kế hoạch cho hai cô con gái lúc đó mới 11 và 14 tuổi, cáo buộc anh xâm hại tình dục cùng những chuyện tày đình do cô ta tưởng tượng. Các cô bé đã ký bản khai viết tay có tuyên thệ, kể rõ chi tiết chuyện cưỡng hiếp và quấy rối. Gerald bị bắt, tống vào tù với điều kiện bảo lãnh trên trời, và anh luôn một mực khăng khăng mình vô tội.

Ở Virginia, khó mà biện hộ những tội này. Ở phiên tòa của anh, cả hai cô bé đều lên bục nhân chứng, và từ trí tưởng tượng, mô tả những chuyện kinh khủng mà cha dượng làm với chúng. Gerald đứng ra phản bác, nhưng tính nóng nảy của anh khiến bồi thẩm đoàn không cảm thông được. Anh bị tuyên án 20 năm. Đến khi anh ra tù thì giải thưởng của anh cũng bốc hơi rồi.

Cả hai cô bé kia đều không học hết trung học. Cô chị thì sống bừa bãi ghê gớm, mới 21 tuổi mà đã kết hôn hai lần. Cô em đã có con, và đang làm ở một cửa hàng đồ ăn nhanh với mức lương tối thiểu. Mẹ chúng có một tiệm làm đẹp ở ngoại ô Lynchburg, cô ta cũng rất lắm chuyện. Thám tử của chúng tôi ở đó đã kiếm được bản khai có tuyên thệ của hai khách hàng cũ mô tả cô ta cứ kể suốt về chuyện mình đã gài tội Gerald thế nào. Chúng tôi cũng đã có bản khai có tuyên thệ từ một bạn trai cũ với cùng nội dung như thế. Cô ta dọa anh bạn trai sợ chết khiếp đến nỗi phải tìm cách bỏ của chạy lấy người.

Chúng tôi chú ý Cook từ hai năm trước, sau khi anh gửi đến một lá thư từ trong tù. Chúng tôi nhận tầm 20 lá thư mỗi tuần, và con số vụ tồn đọng nhiều đến nỗi chẳng dám nghĩ. Vicki, Mazy và tôi cố dành thời gian đọc cho hết chúng và loại đi những trường hợp chúng tôi không giúp được. Đại đa số là những phạm nhân có tội, rảnh quá nên cứ tìm cách tuyên bố mình vô tội và viết những lá thư dài dằng dặc gửi khắp nơi. Những lúc đi đây đó, tôi đem theo một chồng, để đọc vào những lúc đáng ra tôi phải ngủ. Ở Hội Vệ nhân, chúng tôi có quy tắc là phải trả lời mọi thứ mình nhận.

Câu chuyện của Cook có vẻ đáng tin và tôi đã hồi âm. Chúng tôi trao đổi thư từ qua lại, và anh còn gửi cả hồ sơ vụ án cũng như biên bản phiên tòa cho tôi. Chúng tôi đã điều tra sơ bộ và tin rằng có lẽ anh đã nói thật. Một năm trước, tôi đến thăm, và gần như ngay lập tức thấy cáu với anh. Cuộc chuyện trò với Cook đã xác nhận điều tôi cảm nhận qua thư: nỗi ám ảnh với ý muốn báo thù. Mục tiêu của anh là ra tù và trả thù vợ cũ cùng hai cô con gái vợ, bằng cách tấn công thể lý hoặc khả năng cao hơn là gài tội ma túy cho họ vào tù. Anh mơ đến ngày được vào tù thăm họ. Tôi đã cố làm dịu thâm thù này bằng cách giải thích rằng chúng tôi mong các thân chủ của mình, khi đã tự do sẽ không dính líu gì đến chuyện âm mưu trả thù ai.

Hầu hết các phạm nhân tôi viếng thăm trong tù đều tử tế và biết ơn vì được gặp mặt trực tiếp. Nhưng Cook thì lại hung hăng. Anh ta ném cho tôi cái nhìn khinh khỉnh qua lớp mica, cầm lấy điện thoại hỏi gằn, “Sao lâu thế anh mới đến, anh Post? Anh biết tôi vô tội mà, đưa tôi ra khỏi đây đi.”

Tôi mỉm cười đáp lại, “Rất vui được gặp anh, Gerald. Anh khỏe không?”

“Đừng có khỏe với chả mạnh với tôi, Post. Tôi muốn biết anh đang làm gì ngoài kia khi tôi đang kẹt cứng ở đây với lũ biến thái. Tôi đã đấu với đám biến thái này bảy năm, giờ tôi oải quá rồi, chán quá rồi.”

Tôi bình tĩnh nói, “Gerald à, có lẽ ta nên bắt đầu lại buổi gặp này thì hơn. Anh vừa hét vào mặt tôi, và tôi không cảm kích chuyện đó cho lắm. Anh đâu có trả công cho tôi. Tôi làm tình nguyện mà. Nếu anh không thể chuyện trò cho lịch sự nhẹ nhàng, thì tôi đành ra về vậy.”

Gerald liền cúi đầu và bắt đầu khóc. Tôi kiên nhẫn chờ đợi cho anh tĩnh trí lại. Anh lấy cả hai tay áo lau nước mắt và không dám nhìn tôi.

“Tôi vô tội, Post à,” anh nói, giọng run run.

“Tôi tin như thế, không thì tôi đến đây làm gì?

“Con quỷ cái đó bắt con gái nó nói láo, và cả ba đứa nó giờ vẫn còn cười chuyện đó.”

“Tôi tin lời anh, Gerald. Tin thật sự, nhưng phải mất một thời gian dài mới đưa được anh ra khỏi đây. Đơn giản là không có cách nào để đẩy nhanh tiến trình được. Như tôi đã nói, kết án một người vô tội khá là dễ, nhưng giải oan cho người ta gần như là chuyện bất khả thi.”

“Chuyện này quá sai trái, Post à.”

“Tôi biết, tôi biết mà. Giờ tôi có một vấn đề thế này, Gerald à. Tôi e là khi ra khỏi tù, anh sẽ làm chuyện ngu ngốc. Tôi đã cảnh báo anh nhiều lần về chuyện nuôi tư tưởng báo thù, và nếu anh vẫn cứ như thế, thì tôi sẽ không dính dáng gì đến vụ này nữa.”

“Tôi sẽ không giết cô ta, Post à. Tôi hứa. Tôi sẽ không làm gì đủ ngu ngốc để bị tống lại vào nơi thế này.”

“Nhưng?”

“Nhưng gì cơ?”

“Nhưng anh sẽ làm gì, Gerald?”

“Tôi sẽ làm gì đó. Cô ta xứng đáng ngồi tù vì việc đã làm với tôi, Post à. Tôi không thể cho qua chuyện.”

“Anh phải bỏ qua, Gerald. Anh phải đi đâu đó thật xa và quên cô ta đi.”

“Tôi không thể, Post. Tôi không thể dứt được con quỷ cái đó ra khỏi đầu. Và hai đứa con gái của nó nữa. Tôi ghét chúng tận xương tủy. Tôi ngồi đây, một người vô tội ở trong tù, còn chúng thì nhởn nhơ ngoài kia, cười vào mặt tôi. Công lý ở đâu chứ?”

Vì vẫn còn lý do để hết sức cẩn trọng, nên tôi vẫn chưa phải là luật sư của Gerald. Dù Hội Vệ nhân đã chi gần 20.000 đô-la và hai năm điều tra, nhưng chúng tôi vẫn chưa chính thức tham gia vào vụ này. Ngay từ đầu, tôi đã thấy lo lắng về Gerald và luôn luôn để ngỏ lối thoát.

“Anh vẫn muốn báo thù, phải không, Gerald?”

Môi anh run run, hai dòng nước mắt lại chảy. Anh nhìn tôi, gật đầu.

“Tôi rất tiếc, Gerald, nhưng tôi phải từ chối. Tôi sẽ không biện hộ cho anh.”

Đột nhiên cơn thịnh nộ trong anh bùng nổ. “Anh không được làm thế, Post!” anh hét vào điện thoại, rồi ném nó đi, lao sầm vào tấm mica. “Không! Không! Anh không được làm thế, khốn kiếp! Tôi sẽ chết ở đây mất!” Anh bắt đầu đấm vào tấm mica.

Tôi giật mình, lùi lại một bước.

“Anh phải giúp tôi, Post! Anh biết tôi vô tội mà! Anh không thể bỏ đi và để tôi chết ở đây. Tôi vô tội! Tôi vô tội, anh biết rõ là tôi vô tội mà!”

Cánh cửa sau lưng tôi bật mở, một quản giáo bước vào. “Ngồi xuống,” anh ta hét với Gerald đang vung nắm đấm từ phía bên kia. Cửa phía phòng bên kia cũng mở ra, một quản giáo khác xuất hiện. Anh ta tóm lấy Gerald, đẩy ra xa tấm mica. Tôi len qua cửa để thoát khỏi cảnh này, tai vẫn nghe tiếng hét, “Tôi vô tội, Post! Tôi vô tội.”

Câu đó cứ văng vẳng trong đầu tôi, khi lái xe rời Tully Run.

Bốn tiếng sau, tôi vào Cơ sở Cải huấn Nữ Bắc Carolina (NCCIW) ở Raleigh. Bãi đỗ xe hết chỗ, và như thường lệ, tôi buông liền mấy câu càu nhàu về ngân sách chi cho cải huấn ở đất nước này. Nó là ngành kinh doanh lớn, thậm chí là siêu lợi nhuận ở một vài bang, và thậm chí còn là nhà cung cấp việc làm lớn cho nơi nào đủ may mắn có một nhà tù. Ở Hoa Kỳ, có đến hai triệu người đang bị giam giữ, và cần đến một triệu nhân lực cùng 80 tỷ đô-la tiền thuế để lo cho số người này.

NCCIW đáng ra phải bị đóng cửa, như mọi nhà tù nữ khác. Rất ít tội phạm là nữ. Sai lầm của họ thường là chọn nhầm bạn trai.

Bắc Carolina giam các tử tù ở NCCIW. Hiện giờ ở đây có bảy tử tù, trong đó có thân chủ của chúng tôi, Shasta Briley. Cô bị kết tội đã giết ba đứa con của mình, ở một địa điểm chỉ cách buồng tử tù hiện giờ có 30 cây số.

Cuộc đời cô lại là một câu chuyện buồn nữa của những đứa trẻ không hề có cơ hội trong đời. Mẹ cô nghiện ma túy khi mang thai cô, rồi cô cứ trôi từ nhà chăm sóc này đến cô nhi viện nọ. Cô bỏ học, có thai, sinh con, sống với một người dì, làm việc chỗ này chỗ kia với mức lương tối thiểu, sinh thêm một đứa con nữa, rơi vào nghiện ngập. Sau khi sinh đứa con thứ ba, cô may mắn tìm được chỗ trong một nhà cưu mang người vô gia cư và được một cố vấn ở đó giúp cai nghiện. Một người ở nhà thờ cho cô công việc, và gần như nhận nuôi cô và ba đứa con, rồi cô được chuyển đến một căn nhà hai tầng nho nhỏ mà họ thuê cho cô. Cuộc sống của cô luôn khó khăn, và cô từng bị bắt vì tội dùng chi phiếu giả. Cô bán thân kiếm tiền, rồi chuyển sang bán ma túy.

Cuộc đời cô là cơn ác mộng, cũng chính vì thế mà họ dễ dàng kết tội cô.

Tám năm trước, nhà cô bốc cháy trong đêm. Cô leo cửa sổ thoát ra được, người bị bỏng và trầy xước, chạy ra ngoài hét gọi hàng xóm cứu người. Ba đứa con gái của cô đều thiệt mạng trong ngọn lửa. Người dân trong vùng đến an ủi cô sau thảm kịch. Tang lễ của ba đứa trẻ thật thê lương, cả báo đài địa phương cũng đến đưa tin. Rồi điều tra viên phóng hỏa của bang đến. Khi anh ta nhắc đến chữ phóng hỏa, mọi cảm thương người ta dành cho Shasta đều tiêu tan hết.

Ở phiên tòa, công tố viên chứng minh được rằng vài tháng trước vụ hỏa hoạn, cô đã tất bật đi mua bảo hiểm: ba điều khoản đền bù nhân mạng trị giá 10.000 đô-la cho mỗi đứa con, và đền bù 10.000 đô-la cho nội thất căn nhà. Một người bà con làm chứng rằng Shasta đã đề nghị bán con mình, với giá 1.000 đô-la mỗi đứa. Chuyên gia cũng trình bày rõ ràng quan điểm đây là cố ý phóng hỏa. Shasta có rất nhiều điểm yếu: tiền án tiền sự, ba đứa con với ba người đàn ông khác nhau, tiền sử ma túy và mãi dâm. Ở hiện trường vụ án, hàng xóm khai với cảnh sát rằng cô đã cố xông vào ngôi nhà đang cháy, nhưng lửa quá lớn. Người cô đầy máu, bị bỏng ở tay, và điên cuồng đến quẫn trí. Tuy nhiên, khi giả thuyết phóng hỏa được đưa ra, hầu hết hàng xóm đều thay đổi câu chuyện. Ở phiên tòa, ba hàng xóm của cô khai rằng cô có vẻ bàng quan khi ngọn lửa bùng cháy. Một người còn được phép đưa ra ức đoán rằng có lẽ cô đang phê ma túy.

Bảy năm sau, cô sống đơn độc trong buồng giam, hiếm khi tiếp xúc với ai. Tình dục là thứ đổi chác ở nhà tù nữ, nhưng đến giờ các quản giáo chẳng buồn động đến cô. Cô rất yếu, ăn ít, đọc Kinh thánh và sách cũ nhiều giờ mỗi ngày, và nói không ra hơi. Chúng tôi nói chuyện qua một tấm lưới nên không cần điện thoại. Cô cảm ơn tôi đã đến, và hỏi thăm về Mazy.

Phải lo cho bốn đứa con, Mazy hiếm khi rời Savannah, nhưng cô đã đến đây hai lần và rất khăng khít với Shasta. Họ viết thư cho nhau hàng tuần và trò chuyện qua điện thoại mỗi tháng một lần. Đến giờ, Mazy đã am hiểu về phóng hỏa hơn hầu hết chuyên gia trong ngành này.

“Hôm qua, tôi vừa nhận được thư của Mazy,” cô cười nói với tôi. “Có vẻ mấy đứa nhỏ khỏe cả.”

“Con của cô ấy khỏe lắm mà.”

“Tôi nhớ con mình, anh Post à. Đấy là nỗi khổ lớn nhất của tôi. Tôi nhớ con.”

Hôm nay, tôi không màng gì đến thời gian gấp gáp nữa. Ở đây, họ cho phép luật sư được ở lại bao lâu tùy ý, và Shasta thì rất mừng khi được ra khỏi buồng. Chúng tôi nói chuyện về vụ án của cô, về con của Mazy, về thời tiết, Kinh Thánh, sách vở, bất kỳ chuyện gì cô thích. Sau một tiếng chuyện trò, tôi mới hỏi, “Cô đọc báo cáo phóng hỏa chưa?”

“Đã đọc hai lần, từng chữ một. Có vẻ tiến sĩ Muscrove rất giỏi.”

“Cứ mong là thế.” Muscrove là chuyên gia về phóng hỏa của chúng tôi, một nhà khoa học thực sự đã đảo ngược hoàn toàn kết quả điều tra của bên công tố. Anh ấy chắc chắn rằng vụ hỏa họa không phải do chủ tâm. Nói cách khác, không có tội ác gì ở đây cả. Nhưng làm sao để đưa báo cáo của anh đến tay một thẩm phán có lòng trắc ẩn lại là chuyện không dễ dàng gì. Cơ hội khả dĩ nhất là xin lệnh ân xá phút chót của Thống đốc, một chuyện cũng vô cùng khó xảy ra.

Khi chúng tôi nói chuyện, tôi vẫn ghi nhớ trong đầu rằng có lẽ vụ này chúng tôi sẽ thất bại. Trong sáu thân chủ mà chúng tôi đang biện hộ lúc này, Shasta Briley là người có khả năng sống sót thấp nhất.

Chúng tôi có bàn về bản báo cáo của Muscrove, nhưng khoa học thường quá cao siêu không hiểu nổi, thậm chí với người như tôi. Cô ngả người quay lại với quyển tiểu thuyết lãng mạn đang đọc, và tôi cũng sẵn lòng ngồi đó với cô. Tôi thường phải ngạc nhiên trước đam mê văn học nảy nở trong những phạm nhân lúc chịu cảnh tù.

Một quản giáo vào nhắc tôi giờ đã muộn rồi. Hóa ra, chúng tôi đã chuyện trò được ba tiếng. Tôi đưa tay lên tấm lưới, chạm khẽ tay Shasta, nói lời tạm biệt. Và như thường lệ, cô cảm ơn tôi vì đã dành thời gian bên cô.