← Quay lại trang sách

Chương 17

Seabrook hiện giờ có 23 luật sư, và chúng tôi có một hồ sơ mỏng về từng người. Khoảng một nửa đã hành nghề ở đây lúc Russo bị sát hại. Luật sư kỳ cựu là một ông đã 99 tuổi nhưng hằng ngày vẫn tự mình lái xe đến văn phòng. Hai luật sư mới đến mở văn phòng hồi năm ngoái. Tất cả đều da trắng, có sáu người là nữ. Những người thành đạt nhất có vẻ là hai anh em chuyên lo các vụ phá sản suốt 20 năm qua. Hầu hết văn phòng luật hiếm khi làm việc, một tình trạng chung của các thành phố nhỏ.

Glenn Colacurci từng làm việc ở Tham nghị viện Florida. Khu vực cử tri của ông là Hạt Ruiz và hai hạt khác, vào thời điểm xảy ra án mạng Russo, ông đang ở nhiệm kỳ thứ ba của mình. Keith Russo cũng là bà con xa của ông. Cả hai đều xuất thân từ vùng toàn dân Ý ở Tampa. Thời trẻ, Colacurci điều hành một công ty luật lớn trong thành phố, tuyển mộ Keith về làm khi anh ra trường. Keith đến Seabrook cùng vợ, nhưng Colacurci không có vị trí nào trống cho cô. Keith không làm ở đó lâu, một năm sau, anh đã tách ra lập công ty luật của mình ở tầng trên một cửa hàng bánh ở Phố Chính.

Tôi chọn Colacurci vì hồ sơ của ông hơi dày hơn mấy người kia và có lẽ ông hiểu rõ về Keith hơn một chút. Trong mọi luật sư đang hành nghề ở thành phố này, ông hiểu biết về nội tình và lịch sử của nó nhất. Qua điện thoại, ông bảo có thể gặp tôi trong nửa giờ.

Lần đầu lái xe đi dọc Seabrook, nhưng tôi cảm thấy như mình nắm khá rõ nơi này. Ở đây chẳng có gì đáng để ý cho lắm, trừ tòa nhà từng một thời thuộc sở hữu của vợ chồng Russo và cũng là nơi án mạng xảy ra; con phố sau lưng tòa nhà mà Carrie Holland đã khai man là thấy một người đàn ông da đen chạy qua; cuối cùng là tòa án. Tôi đỗ xe bên kia Phố Chính, ngồi đó quan sát dòng xe cộ thưa thớt. Tôi nghĩ, không biết bao nhiêu người ở đây nhớ được vụ án mạng đó nhỉ? Bao nhiêu người biết Keith Russo? Hay Quincy Miller? Họ có biết thành phố đã phạm sai lầm và đẩy một người vô tội vào tù? Dĩ nhiên là không rồi.

Đến giờ như đã hẹn, tôi hòa vào dòng người trên vỉa hè, đi qua nửa khối nhà đến văn phòng của Colacurci. Trên cửa kính lớn là dòng chữ sơn đen bị bong tróc mấy chỗ: CÔNG TY LUẬT COLACURCI. Tôi vừa bước vào thì nơi cửa reo lên tiếng chuông leng keng, đúng kiểu từ xưa lắc lơ rồi. Một con mèo khoang già trượt mình xuống khỏi sofa, làm sục lên một đám bụi. Bên phải tôi là một cái bàn có nắp cuộn, chễm chệ trên nó là máy đánh chữ Underwood loại thông dụng, như thể đang chờ một thư ký tóc muối tiêu nào đó quay lại tiếp tục gỗ và gõ. Mùi chủ đạo ở đây là da thuộc cũ và thuốc lá để lâu năm, không dễ ngửi cho lắm và đáng ra cần kha khá thời gian dọn dẹp.

Thế nhưng, trái ngược với khung cảnh như từ đầu thế kỷ trước này, một cô gái gốc Á trẻ trung mặc váy ngắn xuất hiện kèm nụ cười thân thiện, “Xin chào. Tôi giúp được gì ạ?”

Tôi cười đáp lễ, “Vâng, tôi là Cullen Post. Hôm qua, tôi đã nói chuyện với ông Colacurci và ông ấy đã đồng ý gặp tôi sáng nay.”

Cô gái vừa mỉm cười vừa cau mày, không hiểu sao lại làm được thế, rồi bước đến một chiếc bàn có vẻ hiện đại hơn cái kia một chút. Cô nói, khá là khẽ, “Ông ấy không báo tôi. Xin lỗi. Tôi là Bea.”

“Ông ấy có đây không?” tôi hỏi.

“Có chứ. Tôi sẽ đi gọi. Ông ấy đâu có bận gì,” cô lại mỉm cười và lướt đi. Chốc lát sau, cô quay lại đưa tôi vào một văn phòng lớn, nơi Glenn đã bàn chuyện tòa án suốt hàng chục năm trời. Ông đứng cạnh bàn, có vẻ rất hài lòng khi có người đến thăm, và chúng tôi giới thiệu ngắn gọn về nhau. Ông quay sang chiếc ghế sofa bọc da rồi bảo Bea, “Pha cà phê cho chúng tôi nhé.” Tập tễnh chống gậy, ông bước tới và ngồi chiếm trọn cái ghế đáng ra cho hai người ngồi. Colacurci đã gần 80 và diện mạo phản ánh rất đúng số tuổi, với thân hình phốp pháp, chòm râu bạc và mái tóc trắng xóa rối bù rất cần cắt tỉa. Nhưng ông trông cũng khá bảnh với dây móc quần màu đỏ và nơ cổ màu hồng.

“Anh là linh mục hay gì à?” ông nhìn cổ áo linh mục của tôi.

“Phải. Thuộc Giáo hội Giám nhiệm.” Tôi nói qua cho ông về Hội Mục vụ Vệ nhân, còn ông thì dựa cằm lên đầu gậy và chăm chú lắng nghe, qua đôi mắt lục sắc sảo có hơi hoe đỏ. Bea đem cà phê lên, và tôi nhấp một ngụm. Cà phê chỉ hơi ấm, có lẽ là loại pha sẵn.

Khi cô gái đã ra ngoài, đóng cửa lại, Colacurci hỏi tôi, “Một linh mục thì liên quan gì mà can dự vào một vụ án quá cũ như vụ Quincy Miller?”

“Ông hỏi rất hay. Nếu không nghĩ anh ấy vô tội, tôi đâu đến đây làm gì.”

Câu này làm ông thấy thích thú. “Thú vị đấy. Tôi chưa hề thấy có vấn đề gì với bản án dành cho Miller. Vụ đó có nhân chứng, theo tôi nhớ là vậy.”

“Không có nhân chứng nào cả. Chỉ có một cô, hồi đó rất trẻ, tên là Carrie Holland, ra làm chứng đã thấy một người da đen chạy từ hiện trường vụ án ra, tay cầm một thứ được cho là khẩu shotgun. Cô ấy đã nói dối. Cô ấy là con nghiện thỏa thuận với cảnh sát để thoát án thôi. Và Carrie Holland đã thú nhận rồi. Nhưng ở phiên tòa đó, không chỉ mình cô ấy nói dối.”

Ông đưa tay vuốt mái tóc dài ra sau. Có vẻ là tóc dầu và lâu rồi chưa gội. “Thú vị thật.”

“Ông thân thiết với Keith không?”

Ông cười nửa miệng, có tiếng gằn hơi cáu. “Anh muốn gì ở tôi?”

“Chuyện chung chung thôi. Ông có dự phiên tòa không?”

“Không. Tôi muốn lắm, nhưng họ dời tòa sang Hạt Butler, tôi thì đang làm tham nghị viên nên khá bận. Hồi đó có bảy luật sư làm việc ở đây, công ty luật lớn nhất ở khu vực này, và tôi đâu rảnh đến mức đến tòa án xem các luật sư khác làm việc.”

“Keith là bà con của ông, phải chứ?”

“Có thể nói thế. Bà con khá là xa. Tôi quen biết gia đình nó hồi ở Tampa. Nó năn nỉ và tôi đã cho nó một công việc, nhưng lại chẳng hợp được với nó. Nó còn muốn tôi nhận cả vợ nó, nhưng tôi không muốn. Nó ở đây tầm một năm, rồi ra mở văn phòng riêng. Tôi chẳng thích kiểu đó. Người Ý thì phải đặt lòng trung thành lên trên hết.”

“Anh ấy giỏi nghề luật sư chứ?”

“Chuyện đó giờ còn quan trọng nữa à?”

“Tôi chỉ tò mò thôi. Quincy nói Keith xử lý vụ ly hôn của anh ấy rất tệ, và sau khi xem hồ sơ tòa, tôi cũng có cảm giác như thế. Công tố viên xem mâu thuẫn của họ là động cơ phạm tội, một suy diễn khá là xa. Ý tôi là, có thân chủ nào giận đến mức thổi tung đầu luật sư chứ?”

“Tôi chưa thấy bao giờ,” ông nói và phá lên cười. Tôi cũng cười theo. “Nhưng tôi cũng gặp đủ thân chủ điên rồi. Nhiều năm trước, có một gã đã xách súng đến. Gã nổi điên vì vụ ly hôn. Ít ra là gã bảo mình có súng. Nhưng mọi luật sư trong tòa nhà đều có súng cả, và chuyện có thể loạn cả lên, nhưng một cô thư ký dễ thương đã xoa dịu được gã. Tôi luôn tin tưởng mấy thư ký dễ thương, lúc nào cũng được việc.”

Mấy luật sư già thích kể chuyện chiến chinh hơn cả ăn, còn tôi chỉ mong ông hăng lên. Tôi nói, “Hồi đó, ông có công ty luật lớn thật.”

“Lớn so với khu vực này của bang. Có bảy, tám, thậm chí có lúc đến mười luật sư, hơn chục thư ký, văn phòng nhiều tầng, thân chủ xếp hàng dài trước cửa. Thời đó, tôi hăng lắm, nhưng tôi dần chán mấy chuyện thị phi. Phân nửa thời gian làm việc là để phân xử cho các nhân viên. Anh từng hành nghề luật sư chưa?”

“Tôi đang làm luật sư đây, chỉ là có thay đổi chuyên ngành. Nhiều năm về trước, tôi làm luật sư công, nhưng bỏ việc. Tôi tìm được Chúa và Ngài dẫn dắt tôi vào chủng viện. Tôi làm linh mục, rồi lúc làm một chương trình mục vụ, tôi gặp một người vô tội trong tù. Chuyện đó đã biến đổi cuộc đời tôi.”

“Anh đã giúp anh ta ra tù?”

“Phải. Rồi thêm bảy người nữa. Hiện giờ, tôi đang lo sáu vụ, bao gồm cả vụ của Quincy.”

“Hình như tôi có đọc đâu đó, nói rằng 10% tù nhân thật ra là người vô tội. Anh tin thế không?”

“Mười phần trăm có vẻ là hơi cao, nhưng thật sự có vài ngàn người vô tội trong tù.”

“Chắc tôi không tin nổi rồi.”

“Hầu hết người da trắng không tin vậy, nhưng cứ đến cộng đồng da đen mà hỏi, sẽ có kha khá người tin vậy đấy.”

Trong 18 năm làm ở tham nghị viện, Colacurci đã giữ vững lập trường về luật pháp. Ủng hộ án tử hình, ủng hộ quyền sở hữu súng, quyết tâm bài trừ ma túy, và chi mạnh tay cho cảnh sát và công tố viên.

Ông nói, “Tôi chưa hề để tâm đến luật hình sự. Mảng đó khó kiếm tiền lắm.”

“Nhưng Keith lại kiếm tiền nhờ mảng hình sự, phải chứ?”

Ông cau mày nhìn tôi chằm chằm, như thể tôi vừa vượt quá giới hạn. Cuối cùng, ông nói, “Keith chết hơn 20 năm rồi. Sao anh lại quan tâm đến công việc luật sư của nó?”

“Vì thân chủ của tôi không giết anh ấy. Mà là người khác, với động cơ khác. Chúng tôi biết Keith và Diana đã biện hộ cho một vài tay buôn ma túy hồi cuối những năm 1980, một số ở khu vực Tampa. Những người như thế đáng khả nghi mà.”

“Có lẽ, nhưng tôi e là sau bao nhiêu năm như vậy, họ chẳng có gì nhiều để nói đâu.”

“Ông có thân với cảnh sát trưởng Pfitzner không?”

Ông lại trừng mắt nhìn tôi. Tôi đã liên kết Pfitzner và dân buôn ma túy, một cách không khéo cho lắm, và Colacurci biết tôi đang nghi ngờ chuyện gì. Ông hít một hơi thật sâu, thở ra chầm chậm và nói, “Bradley và tôi chưa hề thân thiết. Ai lo việc nấy. Chúng tôi có cùng quan điểm chính trị, nhưng tránh giẫm chân nhau. Tôi không dây vào bên hình sự, nên hiếm khi chúng tôi có dịp làm việc chung.”

“Giờ ông ta ở đâu?” Tôi hỏi.

“Chết rồi, có lẽ thế. Ông ta rời khỏi đây cũng lâu rồi.”

Ông ta chưa chết, và đang sống sung sướng ở quần đảo Florida Keys. Ông ta về hưu sau 32 năm làm cảnh sát trưởng và dọn nhà đi luôn. Căn nhà ba phòng của ông ta ở Marathon được định giá đến 1,6 triệu đô. Đúng là thời hưu dưỡng không tồi cho một công chức mà lương chưa bao giờ chạm ngưỡng 60.000 đô-la một năm.

“Anh nghĩ Pfitzner liên quan gì đó đến vụ sát hại Keith?” Colacurci hỏi.

“Ôi, không. Tôi đâu có ý đó.”

Ôi, trúng phóc thì có. Nhưng Colacurci không mắc câu. Ông ấy nheo mắt, “Nhân chứng đó nói Pritzner đã thuyết phục cô ta nói dối trên tòa sao?”

Nếu cần Carrie Holland tuyên bố bác bỏ lời khai man, thì phải là trước tòa cho tất cả mọi người chứng kiến. Tôi chưa sẵn sàng tiết lộ gì cho ông ấy. “Ông Colacurci, đây là chuyện bảo mật, được chứ?”

“Phải rồi, hẳn rồi,” ông hăm hở đồng ý. Cách đây mười lăm phút, ông còn chưa biết gì về tôi, chỉ mới chuyện trò qua điện thoại.

“Cô ấy không chỉ đích danh Pfitzner, chỉ nói là cảnh sát và công tố viên. Tôi chẳng có lý do gì để nghi ngờ Pfitzner chuyện gì cả.”

“Thế thì tốt. Án mạng này đã được phá hơn 20 năm rồi. Anh đang phí công vô ích thôi, anh Post.”

“Có lẽ. Mà ông thân với Diana Russo không?”

Ông tròn mắt như thể chẳng muốn dính dáng gì đến chuyện này vậy. “Chẳng thân gì. Từ đầu tôi đã không muốn dính dáng gì rồi. Nó xin việc, nhưng chỗ tôi không tuyển luật sư nữ. Nó xem đó là xúc phạm, và chưa hề thích gì tôi. Nó xúi Keith ghét tôi, và chúng tôi chẳng bao giờ hợp nhau. Tôi nhẹ nhõm khi Keith nghỉ việc, dù tôi chưa dạy bảo nó xong. Nó cứ gây phiền nhiễu cho tôi mãi.”

“Là sao?”

Ông ngước lên trần nhà, như thể đang bàn thảo với bóng ma xem có nên kể chuyện gì đó với tôi không. Nhưng là một luật sư già, ông đâu kìm nổi ham muốn kể chuyện cũ. “Chuyện là thế này,” ông mở lời và trở người lấy thế trên ghế như để chuẩn bị cho một câu chuyện dài. “Hồi đó, tôi nắm độc quyền mọi vụ kiện bồi thường thiệt hại ở Hạt Ruiz. Mọi vụ tai nạn xe cộ, sản phẩm kém chất lượng, sơ suất y tế, mất uy tín, đủ thứ. Nếu ai đó bị thương, họ sẽ đến đây, hoặc thỉnh thoảng tôi đến gặp họ ở bệnh viện. Keith muốn được nhận mấy vụ như thế, vì rõ ràng mấy vụ bồi thường đó là cách duy nhất để kiếm tiền ở đây. Làm cho công ty lớn ở Tampa cũng ổn, nhưng làm luật sư bồi thường thiệt hại tầm cỡ thì chấp hết. Khi Keith rời công ty tôi, nó cuỗm theo một vụ, và chúng tôi đã cãi nhau ầm ĩ. Nó đang khánh kiệt và cần tiền, nhưng vụ đó của công ty tôi. Tôi dọa kiện nó ra tòa, và chúng tôi đã tranh chấp suốt hai năm. Cuối cùng nó đồng ý đưa tôi một nửa, nhưng dù thế nào đi nữa, làm thế là quá bậy. Diana cũng có phần trong chuyện này.”

Tôi cũng không ngạc nhiên gì, hầu như tuần nào cũng có cãi vã trong các công ty luật, và lúc nào cũng vì chuyện tiền.

“Ông và Keith làm hòa chưa?”

“Tôi cho là rồi, nhưng cũng mất mấy năm. Thành phố này nhỏ mà, và các luật sư thường hòa hợp với nhau. Chúng tôi đã đi ăn trưa, một tuần trước khi nó bị giết, nói cười vui vẻ. Keith là đứa giỏi, làm việc chăm chỉ. Có lẽ tham vọng hơi quá. Còn vợ nó thì tôi không ưa lắm. Nhưng phải thấy thương cho cô ta. Phải thấy cái xác không đầu của chồng mình cơ mà. Nó lại khá đẹp trai. Con vợ đau lòng lắm, không bao giờ tươi tỉnh lại như trước nữa. Nó đã bán tòa nhà rồi dọn đi.”

“Từ đó ông không liên lạc gì nữa?”

“Hoàn toàn không.” Ông liếc nhìn đồng hồ như thể vừa trải qua một ngày kinh khủng, ý của ông quá rõ rồi. Chúng tôi đổi sang mấy chủ đề khác, và sau 30 phút, tôi cảm ơn ông rồi xin phép ra về.