← Quay lại trang sách

Chương 21

Trong ba tháng vừa qua, chúng tôi xử lý công việc một cách kín đáo hết sức có thể. Chúng tôi vẫn chưa rõ những kẻ đã giết Keith Russo có biết chúng tôi đang điều tra không, một chút cẩn thận ẩn thân vẫn hơn. Nhưng sự kín đáo đó sẽ biến mất khi chúng tôi thay mặt Quincy Miller đệ đơn kiến nghị xét xử hậu tuyên án.

Hồ sơ Mazy soạn khá dày, viết mạch lạc và lập luận sắc sảo như thường lệ. Mở đầu là bác bỏ lời chứng chuyên gia của Paul Norwood về phân tích vết máu. Cô công kích về uy tín của ông ta, chỉ rõ những điểm xấu xa của ông ta. Khi mổ xẻ chi tiết, cô đưa ra bảy người đi tù vì lời chứng của ông ta nhưng về sau được giải oan nhờ xét nghiệm ADN. Cô chốt lại rằng bảy người kia tổng cộng đã phải ở tù 98 năm, nhưng không ai phải ở tù lâu hơn Quincy Miller.

Khi vạch mặt Norwood xong, cô đưa ra khoa học thật sự và viện đến Kyle Benderschmidt. Uy tín cực lớn của ông được trình bày và đối chiếu với chuyên gia của bên công tố. Báo cáo của Benderschmidt mở đầu bằng nhiều nghi vấn. Cây đèn pin là vật chứng duy nhất liên kết vụ này với Quincy, nhưng nó không phải được lấy từ hiện trường vụ án. Không có bằng chứng gì cho thấy nó thật sự hiện diện ở hiện trường vào thời điểm gây án. Không có bằng chứng gì cho thấy những vết bé xíu trên mặt kính là máu người. Hoàn toàn không thể từ mấy tấm ảnh mà kết luận những chấm màu cam này là máu được. Cũng hoàn toàn không thể xác định góc súng nổ. Hoàn toàn không thể biết liệu hung thủ có cầm đèn pin khi bắn hay không, hoặc thậm chí là có cầm trên tay hay không. Quá nhiều cái không thể. Lời chứng của Norwood sai trầm trọng, không có căn cứ khoa học, mâu thuẫn với lý luận thông thường, và vô trách nhiệm về pháp lý. Norwood đã mặc định những tình tiết quan trọng là thật, dù chẳng có căn cứ rõ ràng, và khi gặp chuyện gì chưa rõ, ông ta lại bịa thêm lời chứng khác.

Bản tóm gọn những phát hiện của Benderschmidt thật sắc sảo, đầy tính thuyết phục và đem lại chứng cứ mới. Nhưng không chỉ có thế.

Chuyên gia thứ hai của chúng tôi là tiến sĩ Tobias Black, một nhà tội phạm học lừng danh ở San Francisco. Làm việc độc lập với tiến sĩ Benderschmidt, tiến sĩ Black xem xét các tấm ảnh và tìm hiểu về biên bản phiên tòa. Ông không kìm nén sự khinh bỉ đối với những khoa học mạo nhận như Norwood. Kết luận của ông cũng tương tự.

Văn phong của Mazy như của những nhà văn đoạt giải Nobel, lại được củng cố bởi những sự thật không thể bác bỏ. Nếu lỡ phạm tội, chẳng ai muốn làm cô ấy mếch lòng đâu.

Cô còn chỉ trích việc điều tra của cảnh sát trưởng Pfitzner. Dùng Đạo luật Tự do Thông tin, Vicki đã lấy được hồ sơ từ cảnh sát bang Florida. Trong một biên bản, điều tra viên phàn nàn về việc Pfitzner can thiệp quá sâu cũng như cố gắng duy trì sự kiểm soát hoàn toàn và độc nhất của mình đối với quá trình điều tra. Ông ta không muốn bất kỳ người ngoài nào can dự vào, cũng như không chịu hợp tác.

Khi không có vật chứng liên kết Quincy với tội ác này, Pfitzner buộc phải tự tạo ra. Ông ta đã tổ chức khám xét xe của Quincy, mà không thông báo cho cảnh sát bang, và kết quả lại là tìm được cây đèn pin trong thùng xe.

Tiếp theo, hồ sơ đệ trình của Mazy nói đến các nhân chứng đã khai man, kèm theo các bản khai có tuyên thệ của Carrie Holland Pruitt, Zeke Huffey, Tucker Shiner, và James Rhoad. Mazy đã cố kiềm chế, nhưng vẫn dùng từ ngữ rất dữ dội với các nhân chứng khai man, cô còn bình luận gay gắt về việc các công tố viên lạm dụng lời khai của những kẻ chỉ điểm.

Rồi, Mazy phân tích vấn đề không ổn trong động cơ gây án, và sự thật rằng mối hận thù của Quincy đối với Keith Russo là chuyện đồn đại hơn là có căn cứ thật sự. Cô đưa ra một bản khai có tuyên thệ từ một tiếp tân cũ ở công ty luật của Russo, nói rằng cô ấy nhớ chỉ có một lần Quincy cáu kỉnh đến văn phòng, và có bất ổn nhẹ. Nhưng anh không đe dọa gì, và rời đi khi cô bảo Keith không có đây. Theo trí nhớ của cô, Quincy không đến thêm lần nào, cũng không đe dọa gì, trái ngược với những gì mà Diana Russo đã kể với bồi thẩm đoàn. Cũng chưa hề có ai báo cảnh sát gì về chuyện đe dọa. Thật vậy, không có bất kỳ báo cáo nào về việc có ai trong công ty luật khiếu kiện gì đối với hành vi của Quincy. Còn chuyện đe dọa trên điện thoại, đơn giản là không có chứng cứ. Diana đã ngăn không cho bên bị cáo tiếp cận hồ sơ cuộc gọi của cả hai vợ chồng cô, và chúng cũng đã bị tiêu hủy từ thời điểm đó.

Phần cuối cùng là bản tóm gọn lời chứng của chính Quincy. Vì anh không được nói gì ở phiên tòa đó, nên đến bây giờ, anh mới có thể kể lại câu chuyện của mình qua bản khai có tuyên thệ. Anh bác bỏ mọi liên quan đến án mạng, bác bỏ việc mình từng sở hữu hay bắn một khẩu shotgun 12-gauge, bác bỏ việc mình biết chút gì về cây đèn pin đó trước khi thấy ảnh của nó ở phiên tòa. Anh bác bỏ việc mình đã ở Seabrook vào tối xảy ra án mạng. Nhân chứng ngoại phạm của anh, cũng là bạn gái cũ, Valerie Cooper, chưa hề thay đổi lời chứng rằng anh đã ở cùng cô tối hôm ấy. Chúng tôi cũng đính kèm cả bản khai có tuyên thệ của Valerie nữa.

Hồ sơ dài 54 trang, với lý luận rõ ràng mạch lạc, khiến người đọc hầu như không còn chút nghi ngờ nào, ít nhất là trong tâm trí của những người tử tế ở Hội Mục vụ Vệ nhân, rằng bang Florida đã kết án nhầm người. Hồ sơ này phải được đưa đến tay các thẩm phán công tâm và hiểu biết, những người thấy mình phải hành động gấp để sửa đổi chuyện bất công. Nhưng chuyện không hề được như vậy.

Chúng tôi lặng lẽ đệ đơn và chờ đợi. Sau ba ngày, rõ ràng là báo chí chẳng để tâm gì đến chuyện này, không sao cả. Xét cho cùng, vụ này đã khép lại từ 22 năm trước rồi.

Vì tôi không có giấy phép hành nghề luật sư ở Florida, nên chúng tôi cộng tác với Susan Ashley Gross, một người bạn cũ điều hành Dự án Người Vô tội Trung Florida. Tên của cô được đặt đầu danh sách người đệ đơn, trên cả tên tôi và Mazy.

Hồ sơ này từ nay là tài liệu công khai rồi, nên tôi gửi một bản cho Tyler Townsend và cầu mong sẽ có phản hồi.

Ở Alabama, Chad Falwright rất biết giữ lời hứa thực thi công lý với tôi chứ không phải với hung thủ đích thực. Anh ta đệ đơn khiếu nại về đạo đức nghề nghiệp lên hội đồng luật sư Alabama mà tôi vốn chẳng phải thành viên, và cả hội đồng ở Georgia, nơi tôi đăng ký hành nghề. Chad muốn tôi bị tước tư cách luật sư vì can thiệp chứng cứ. Tội mượn một sợi lông.

Tôi từng gặp mấy chuyện thế này rồi. Nó khá phức tạp, và đôi khi hơi đáng sợ, nhưng tôi không thể lùi bước. Duke Russell vẫn đang ngồi tù vì tội của Mark Carter, và chuyện đó khiến tôi trằn trọc hằng đêm. Tôi gọi cho một người bạn là luật sư ở Birmingham, và anh ấy cáu tiết muốn đấu với Chad một phen. Còn Mazy sẽ lo vụ khiếu nại ở Georgia.

Tôi đang ở phòng họp trên lầu, xử lý đống thư của các tù nhân cùng quẫn, thì Mazy réo gọi. Tôi xuống cầu thang vào văn phòng cô thì thấy cô và Vicki đang nhìn chằm chằm vào màn hình máy tính. Tin nhắn viết bằng font chữ in đậm xấu xí cực kỳ khó đọc, nhưng thông điệp lại rất rõ ràng.

hồ sơ anh đã lên Hạt Poinsett rất đáng để đọc nhưng

lại không hề nói đến Kenny Taft. có lẽ anh ấy không phải bị dân buôn ma túy bắn đâu,

có lẽ anh ấy biết quá nhiều. (tin nhắn này sẽ tự hủy trong năm phút

sau khi được mở, không thể dò được dấu tích, đừng cố).

Chúng tôi nhìn chăm chăm cho đến khi nó mờ dần và chỉ còn trang giấy trắng. Vicki và tôi ra ghế ngồi, mắt nhìn mơ hồ vào bức tường trước mặt. Mazy thì gõ bàn phím, cuối cùng cô thông báo, “Website đó có tên là Dưới Mái hiên Patty. Trả 20 đô-la một tháng, bằng thẻ tín dụng, thì được quyền truy cập 30 ngày vào một phòng chat riêng, tin nhắn gửi đi được bảo mật, chỉ tồn tại tạm thời và không thể truy dấu vết.”

Tôi chẳng biết Mazy đang nói gì nữa. Cô ấy gõ thêm vài đợt, rồi nói, “Cái này có vẻ hợp pháp và vô hại. Có nhiều server như thế ở Đông Âu, nơi luật về quyền riêng tư nghiêm ngặt hơn.”

“Ta trả lời được không?” Vicki hỏi.

“Vấn đề là ta muốn không?” Tôi hỏi.

Mazy nói, “Ta có thể trả lời, với 20 đô-la.”

“Không nghĩ đến chi phí cho những việc thế này,” Vicki nói.

“Người này dùng địa chỉ cassius.clay.444. Ta có thể trả tiền và gửi tin nhắn cho anh ấy.”

“Giờ chưa được,” tôi nói. “Anh ta không muốn nói chuyện và đâu định nói gì thêm. Cứ nghĩ mà xem.”

Những lời mách nước ẩn danh là một phần cuộc chơi này, và dốc sức vào đó có thể phí phạm thời gian vô cùng.

Kenny Taft mới 27 tuổi khi bị giết ở một vùng hẻo lánh tại Hạt Ruiz vào năm 1990. Anh là cảnh sát da đen đầu tiên trong lực lượng của Pfitzner, phục vụ được ba năm trước khi hy sinh. Taft và cộng sự, Gilmer, được Pfitzner cử đến một địa điểm được cho là điểm tập kết của dân vận chuyển cocaine và theo tin nhận được thì chúng hiện không có ở đây. Taft và Gilmer không nghĩ sẽ có rắc rối gì. Nhiệm vụ của họ chỉ là đi tiền trạm theo yêu cầu của văn phòng DEA ở Tampa. Rất ít khả năng chỗ đó là tụ điểm của dân buôn ma túy, việc của họ chỉ là quan sát sơ qua rồi báo cáo.

Theo Gilmer, người sống sót và bị thương nhẹ, họ bị phục kích khi đang lái chầm chậm dọc con đường lát sỏi lúc 3:00 sáng. Rừng khá rậm và họ không thấy được kẻ phục kích. Phát súng đầu tiên bắn trúng sườn chiếc xe Gilmer đang lái, gương chiếu hậu vỡ nát. Anh thắng lại, lao khỏi xe và lẩn xuống một cái hố. Còn phía bên kia, Kenny Taft cũng chạy ra, nhưng ngay lập tức bị một phát vào đầu và chết ngay tại chỗ, còn chưa kịp rút súng ra. Khi không còn tiếng súng nữa, Gilmer bò trở lại xe và gọi tiếp viện.

Những tay súng phục kích đã biến mất không một dấu vết. Viên chức bên DEA tin rằng vụ này do dân buôn ma túy gây ra. Vài tháng sau, một tay chỉ điểm nói rằng thủ phạm không biết đó là cảnh sát. Vào thời điểm đó, có một lượng lớn cocaine được cất giấu ngay cuối con đường mà Taft và Gilmer đang đi, nên chúng phải bảo vệ hàng của mình.

Tay chỉ điểm còn nói rằng những kẻ nổ súng đã cao chạy xa bay đến Nam Mỹ rồi. Có đến đó lục soát cũng chẳng được gì.