Chương 22
Tôi vừa nhận tràng mắng xối xả của Otis Walker qua điện thoại. Có vẻ June, vợ anh, buồn vì người chồng thứ hai của mình, James Rhoad, đã nói xấu về cô trước tòa. Tôi kiên nhẫn giải thích rằng chúng tôi vẫn chưa ra tòa, nhưng đã đệ lên bản khai có tuyên thệ của Rhoad nói rằng June đã cười cợt về chuyện khai man trước tòa để khiến Quincy bị kết tội.
“Hắn gọi cô ấy là kẻ dối trá sao?” Otis hỏi, như thể ngạc nhiên lắm vậy. “Trước mặt bồi thẩm đoàn sao?”
“Không, anh Walker, không phải trong phòng xử án, chỉ trên giấy tờ thôi.”
“Sao hắn lại thế?”
“Vì chúng tôi yêu cầu. Chúng tôi đang cố giải oan cho Quincy, vì anh ấy đâu giết luật sư đó.”
“Vậy ý anh là June vợ tôi là kẻ dối trá chứ gì?”
“Chúng tôi nói là cô ấy đã nói dối trước tòa vào thời điểm đó.”
“Có khác gì nhau đâu. Tôi chẳng biết sao các người có thể lôi chuyện từ 20 năm trước lên để làm gì.”
“Phải. Đã quá lâu rồi. Cứ hỏi Quincy là biết lâu chừng nào.”
“Tôi nghĩ tôi phải nói chuyện này với luật sư của mình.”
“Anh cứ làm thế đi. Đưa anh ấy số của tôi, và tôi rất sẵn lòng trò chuyện. Nhưng anh làm vậy chỉ phí tiền thôi.”
Mazy vừa nhận được tin nhắn từ Dưới Mái hiên Patty:
salty pelican là quán bar kề biển ở nassau,
bahamas; hãy đến đó vào trưa thứ ba, chuyện quan trọng;
(tin nhắn này sẽ tự hủy trong năm phút sau khi được mở ra;
đừng cố truy dấu nó làm gì).
Tôi liền lấy thẻ tín dụng, vào Dưới Mái hiên Patty, đăng nhập với tên joe.frazier.555 và gửi tin nhắn của mình: Đem theo súng hay vệ sĩ được không?
Mười phút sau, tôi nhận được: Không, tôi đến với thiện chí. Quán bar đông đúc, xung quanh có nhiều người.
Tôi trả lời: Làm sao để tôi nhận ra người cần gặp?
Sẽ có cách. Đừng để bị bám đuôi.
Hẹn gặp lại.
Cuộc thảo luận sau đó gần như biến thành tranh cãi. Mazy cương quyết khẳng định chỉ có điên mới đi gặp kẻ lạ. Vicki cũng chẳng thích chuyện này. Tôi thì cương quyết rằng chuyện này đáng để mạo hiểm, lý do khá rõ ràng rồi. Người này biết nhiều về vụ án và muốn giúp. Anh ấy hay cô ấy cũng sợ đến nỗi không muốn gặp nhau trong nước Mỹ, và ít ra với tôi, đấy là dấu hiệu về một khối lượng thông tin đầy hứa hẹn.
Hai thắng một, nhưng tôi vẫn lên đường đến Atlanta. Vicki rất giỏi tìm chuyến bay, khách sạn và xe thuê với giá sập sàn, và bà đã tìm cho tôi một chuyến bay tới Bahamas với máy bay động cơ cánh quạt cổ lỗ sĩ, phải dừng hai chặng trước khi rời khỏi không phận Mỹ. Trên chuyến bay chỉ có một tiếp viên không biết cười và cũng chẳng buồn nhấc mông khỏi ghế.
Không có hành lý nên tôi nhanh chóng qua cửa hải quan, đón một chiếc trong hàng dài taxi đang chờ, một chiếc Cadillac đời 1970, mở nhạc Bob Marley xập xình chủ yếu nhắm đến khách du lịch. Tài xế hút thuốc bằng tẩu cho thêm nét hấp dẫn du khách. Đường xá đông nghịt, xe cộ thì đi chậm rì rì nên cũng khó mà gặp tai nạn chết người. Chúng tôi kẹt cứng một hồi rồi tôi chịu hết nổi. Tôi ra khỏi xe, trả tiền và nhờ tài xế chỉ đường đi.
Salty Pelican là một quán bar cũ, mái lợp rơm đã hơi thõng xuống. Mấy cây quạt trần kêu cọt kẹt và hầu như chẳng làm mát được gì. Một nhóm dân Bahamas địa phương đang xúm nhau chơi domino, có vẻ họ chơi ăn tiền. Số khác thì ném phi tiêu ở góc quán. Ở đây, người da trắng đông hơn hẳn dân bản địa, và rõ ràng là quán chuyên phục vụ du khách. Tôi gọi một chai bia rồi ra ngồi ở bàn dưới tán dù, cách mặt nước chỉ ba mét. Tôi đội mũ bóng chày, đeo kính râm, cố khoác lấy diện mạo du khách bình thường nhất. Qua thời gian, tôi dần giỏi việc điều tra nhưng vẫn kém khoản trinh sát. Nếu có ai bám theo tôi cũng chẳng biết.
Tôi cứ ngồi đó nhìn mặt biển, đến trưa rồi qua chiều.
Bỗng có tiếng nói vang lên sau lưng tôi, “Chào anh Post.” Tyler Townsend nhẹ nhàng ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh. Tên của anh ta vẫn luôn đứng đầu danh sách phỏng đoán của tôi về danh tính của nhân vật bí ẩn này. “Chào,” tôi nói mà không gọi tên anh ra, rồi chúng tôi bắt tay. Tyler đặt chai bia trên tay xuống bàn.
Anh cũng đội mũ bóng chày và đeo kính râm, ăn mặc như thể chuẩn bị đi chơi tennis. Điển trai và rám nắng, mái tóc chỉ rải rác vài sợi bạc, anh trạc tuổi tôi nhưng trông trẻ trung hơn nhiều. “Anh hay đến đây không?” tôi hỏi.
“Có, chúng tôi có hai trung tâm mua sắm ở Nassau, nên vợ nghĩ tôi đến đây vì chuyện làm ăn.”
“Sao phải gặp ở đây?”
“Đi dạo với tôi chút nhé,” Tyler nói rồi đứng dậy. Chúng tôi rảo một vòng quanh bến tàu, đến cầu tàu dài đang neo hàng trăm con thuyền. Anh bảo, “Theo tôi.” Chúng tôi bước xuống tầng thấp hơn, anh chỉ cho tôi con tàu tuyệt đẹp dài 15 mét và được thiết kế để ra khơi xa câu cá buồm, hệt như mấy con được nhồi xác và treo trên thành tàu. Anh nhảy lên boong, rồi đưa tay kéo tôi lên.
“Tàu của anh sao?” tôi hỏi.
“Của tôi và cha vợ. Đi một vòng nhé.” Anh lấy hai chai bia trong tủ lạnh, ngồi vào ghế thuyền trưởng rồi nổ máy. Tôi ngả người xuống sofa, hít thở làn hơi mặn mòi của biển cả khi chúng tôi rẽ sóng rời bến cảng. Bọt nước bắn lên như sương trên mặt tôi.
Tyler lớn lên ở Palm Beach, cha anh là một luật sư biện hộ lừng lẫy. Anh học tám năm ở Đại học Florida để lấy bằng luật và khoa học chính trị, với dự định về quê làm việc trong công ty của gia đình. Cuộc đời Tyler đảo lộn khi cha anh bị một tài xế say rượu tông chết, chỉ vài tuần trước ngày thi lấy bằng luật sư của anh. Tyler đã chờ thêm một năm, cố xốc lại mình, qua được kỳ thi và kiếm được công việc ở Seabrook.
Lúc cha anh chưa mất và còn đảm bảo cho anh một công việc đầy hứa hẹn, anh không chuyên tâm học hành cho lắm. Học bạ đại học của anh không mấy đẹp mắt. Vì mải ăn chơi, nên anh phải mất năm năm mới lấy được bằng cử nhân với vị trí áp chót lớp. Anh có tiếng là dân tiệc tùng, nói nhiều, thường chảnh chọe vì có ông cha lẫy lừng. Đột nhiên, giờ buộc phải đi tìm việc, anh mới thấy hiếm người chịu phỏng vấn anh. Một công ty bất động sản ở Seabrook tuyển anh làm luật sư, nhưng anh chỉ trụ được tám tháng.
Để đỡ chi phí, anh dùng chung văn phòng với các luật sư khác. Để có tiền trả hóa đơn, anh tình nguyện làm luật sư biện hộ cho mọi vụ do tòa chỉ định. Hạt Ruiz quá nhỏ nên không có luật sư công, và các vụ mà bị cáo quá nghèo đều được thẩm phán chỉ định. Sự hăng hái này đã làm hại anh khủng khiếp khi vụ án mạng Russo nổ ra. Các luật sư khác hoặc tránh né hoặc rời đi, và Tyler được chỉ định biện hộ cho Quincy Miller, người đã bị xem là có tội ngay từ khi bị bắt.
Chỉ là một luật sư 28 tuổi với ít kinh nghiệm trước tòa, nhưng màn biện hộ của anh chỉ có thể nói là cực đỉnh. Anh đã đấu tranh dữ dội, phản đối mọi chứng cứ, tranh luận với các nhân chứng của bên công tố và tuyệt đối tin tưởng thân chủ mình vô tội.
Lần đầu đọc biên bản phiên tòa, tôi đã thích mê sự ngông ngạo của Tyler trong phòng xử. Đọc đến lần thứ ba, tôi nhận ra lối nói bạt mạng của anh có lẽ đã khiến bồi thẩm đoàn ghét bỏ. Nhưng dù thế nào đi nữa, anh có tiềm năng rất lớn để làm luật sư biện hộ đại tài.
Thế mà anh đã bỏ ngành luật.
Chúng tôi tạt vào rìa đảo Paradise và đỗ lại ở bến thuyền của một resort. Khi cùng bước trên cầu tàu về khách sạn, Tyler bảo, “Chúng tôi đang tính mua lại nơi này. Họ đang rao bán. Tôi muốn mở rộng mảng kinh doanh và bỏ dần các trung tâm mua sắm. Cha vợ tôi lại hơi bảo thủ.”
Một nhà phát triển bất động sản Florida lại có tính bảo thủ ư?
Tôi thấy chẳng hợp lý chút nào nhưng vẫn gật đầu với anh. Nói chuyện tiền bạc làm tôi đau đầu. Mấy thứ liên quan đến tài chính, thị trường, đầu cơ, vốn tư nhân, đầu tư mạo hiểm, lãi suất, bất động sản, chứng khoán… là tôi bỏ qua hết. Vì tôi chẳng có mấy đồng, nên khỏi quan tâm đến chuyện người khác làm gì với tài sản của họ.
Chúng tôi vào tiền sảnh, đi thang máy lên tầng ba, phòng suite rộng rãi của Tyler ở tầng này. Tôi theo anh ra sân thượng hướng biển, tầm nhìn đẹp mê ly. Anh lấy hai chai bia trong tủ lạnh ra mời và chúng tôi ngồi xuống nói chuyện.
Tyler mở lời, “Tôi ngưỡng mộ anh, Post à, vì việc anh đang làm. Thật lòng đấy. Tôi đã phải rời xa Quincy vì chẳng còn lựa chọn nào khác, nhưng tôi chưa hề tin là anh ấy giết Keith Russo. Tôi vẫn thường nghĩ đến anh ấy.”
“Vậy thì là ai?”
Tyler thở hắt ra rồi uống một hơi dài. Anh đăm chiêu nhìn ra biển. Chúng tôi ngồi dưới một tán dù lớn, xung quanh chẳng thấy bóng ai trừ vài tiếng cười đùa ở biển vọng lên. Anh nhìn tôi và hỏi, “Anh có đeo máy thu âm không, Post?”
Hôm nay thì không. Ơn trời.
“Thôi nào, Tyler. Tôi đâu phải cảnh sát.”
“Anh chưa trả lời câu hỏi của tôi.”
“Không, tôi không đeo máy thu âm. Anh cần khám người không?”
Tyler gật đầu, “Có.”
Tôi gật đầu lại, dễ mà, có sao đâu. Tôi lùi ra khỏi bàn, cởi bỏ đồ để chứng minh. Anh quan sát kỹ, rồi đến khi còn lại cái quần đùi, anh bảo, “Đủ rồi.”
Tôi mặc đồ, ngồi vào ghế, cầm chai bia.
“Xin lỗi, Post, nhưng cẩn trọng không thừa. Về sau anh sẽ hiểu.”
Tôi đưa cả hai tay lên, “Tyler, tôi chẳng biết anh đang nghĩ gì, nên tôi sẽ ngồi yên, anh cứ nói thoải mái, được chứ? Tôi biết anh hiểu được là mọi chuyện sẽ cực kỳ bảo mật. Những kẻ giết Keith Russo vẫn còn nhởn nhơ đâu đó, và chúng sợ sự thật. Anh có thể tin tưởng tôi, được chứ?”
Tyler gật đầu, “Tôi cũng nghĩ thế. Anh đã hỏi tôi ai giết Russo, và câu trả lời là tôi không biết. Tôi có một giả thuyết, một giả thuyết cực kỳ ăn khớp, nghe tôi nói xong anh sẽ đồng ý là thế.”
Tôi nhấp một ngụm, “Tôi nghe đây.”
Tyler hít sâu, cố thả lỏng người. Mấy tình huống thế này có thêm chút chất cồn lại phù hợp, nên tôi liền uống cạn chai của mình. Anh vào tủ lạnh lấy ra thêm hai chai bia, rồi ngả người ra ghế, mắt chăm chăm nhìn mặt biển. “Tôi biết Keith Russo, biết khá rõ. Anh ta hơn tôi tầm mười tuổi, thích đi đây đó, chán cảnh sống ở thành phố nhỏ và mơ cao. Tôi không thích anh ta cho lắm, thật ra tôi chẳng thích ai cả. Anh ta và vợ kiếm tiền từ dân buôn ma túy ở Tampa, thậm chí có cả căn hộ ở đó. Ở Seabrook, người ta đồn đại là họ dự định chuyển đi, lên tầm đại gia. Anh ta và Diana khá hạn chế xã giao ở đó, như thể họ trên tầm dân thành phố nhỏ quê mùa vậy. Thỉnh thoảng, những lúc thiếu việc, họ cũng phải hạ cố làm mấy vụ ly hôn, phá sản, di chúc, nhưng chúng vẫn là việc mạt hạng đối với họ. Keith đã làm rất ẩu trong vụ của Quincy, và anh ấy nổi giận là đúng. Họ chọn kẻ thí mạng quá chuẩn, phải không, Post? Thân chủ bực mình nổi điên giết luật sư lười biếng.”
“Kế hoạch của họ thành công mà.”
“Phải. Cả thành phố bị sốc. Khi Quincy bị bắt, ai cũng thở phào nhẹ nhõm. Mọi luật sư đều lẩn đi hết, trừ tôi ra, và thẩm phán đã gọi. Tôi chẳng còn lựa chọn nào khác. Lúc đầu, tôi đã nghĩ anh ấy có tội, nhưng Quincy sớm thuyết phục được tôi. Tôi nhận vụ đó và hủy hoại luôn sự nghiệp luật sư của mình.”
“Anh đã thể hiện tuyệt vời ở tòa.”
Tyler khoát tay. “Tôi chẳng quan tâm chuyện đó nữa. Nó đã là một cuộc đời khác.” Anh kê khuỷu tay, nghiêng người về phía tôi, như thể câu chuyện đang trở nên nghiêm trọng hơn. “Chuyện xảy ra với tôi là thế này, Post à. Tôi chưa hề kể cho ai chuyện này, kể cả với vợ tôi, và anh không được kể nó cho ai. Mà anh cũng chẳng muốn đâu, vì sẽ vô cùng nguy hiểm. Chuyện là thế này. Sau khi tòa kết thúc, tôi kiệt sức cả về thể chất lẫn tinh thần. Tôi kinh tởm phiên tòa và phán quyết đó, cũng như khinh bỉ bộ máy tư pháp. Nhưng sau vài tuần, tinh thần tôi khá lên đôi chút, vì còn phải tiến hành kháng cáo. Tôi làm việc ngày đêm vì nó, tự nhủ lòng rằng tôi có thể lay chuyển Tòa Thượng thẩm Florida, một chuyện rất hiếm khi xảy ra.”
Anh nhấp chút bia, lại bần thần nhìn biển. “Và kẻ xấu theo dõi tôi. Đến lúc đó tôi mới nhận ra. Tôi sợ đến nỗi hoang tưởng, sợ có người nghe lén điện thoại, đột nhập văn phòng, xe, đủ thứ của tôi. Có hai cuộc gọi nặc danh, cả hai lần đều là giọng nam kỳ quái, ‘Bỏ đi.’ Thế đó. Chỉ nói, ‘Bỏ đi.’ Tôi không thể trình báo cảnh sát, vì tôi chẳng tin họ. Pfitzner kiểm soát tất cả và ông ta là địch thủ. Có khi ông ta chính là cái giọng kỳ quái đó cũng nên.
“Tầm năm đến sáu tháng sau phiên tòa, khi tôi đang tiến hành kháng cáo, hai bạn học của tôi ở trường luật biết tôi cần khuây khỏa đôi chút, nên họ đã lên kế hoạch làm một chuyến đi câu cá mòi ở Belize. Anh từng câu cá mòi chưa?”
Tôi còn không biết là có trò này. “Chưa.”
“Đỉnh lắm đấy. Anh theo chúng đến vùng nước nông, ở Bahamas này và khắp Trung Mỹ, nhiều chỗ như thế lắm. Belize là một trong những chỗ xịn nhất. Bạn tôi mời và tôi thấy mình cũng cần nghỉ ngơi đôi chút. Câu cá mòi thực sự là chuyến phiêu lưu của đàn ông, không đem vợ con, bạn gái, và uống thả ga. Thế nên tôi nhận lời. Tối thứ hai ở đó, chúng tôi đến một tiệc bãi biển không xa lều câu của mình. Ở đó rất đông, dân địa phương, phụ nữ, và người nước ngoài, đều đến đây câu cá nhậu nhẹt. Rồi tiệc tưng bừng lên. Chúng tôi uống bia và rượu rum tẹt ga nhưng chưa đến mức có thể say gục. Chúng tôi không say, mà có kẻ nào đó đã cho thuốc vào đồ uống, rồi có người đưa tôi đi đến một nơi nào đó tôi chẳng biết, và sẽ chẳng bao giờ biết. Tôi tỉnh dậy thì thấy mình nằm trên sàn bê tông, trong căn phòng kín mít, không cửa sổ. Ở đó nóng kinh khủng, như lò hơi vậy. Đầu tôi đau như búa bổ, bụng dạ nôn nao. Có một chai nước nhỏ trên sàn, tôi liền nốc sạch. Áo quần trên người tôi đã bị lột hết, chỉ còn mỗi quần đùi. Tôi ngồi trên sàn bê tông nóng giãy đó chờ đợi suốt mấy tiếng. Rồi cánh cửa bật mở, hai gã dáng vẻ đầu gấu bước vào, tay cầm súng, tiến về phía tôi. Chúng tát tôi, bịt mắt tôi, trói tay tôi, rồi dẫn tôi đi khoảng nửa tiếng trên đường đất khá bẩn. Chân tôi cứ xiêu vẹo, cổ họng khát khô, và cứ mười bước, một tên lại chửi tôi bằng tiếng Tây Ban Nha và thúc tôi đi nhanh. Khi dừng lại rồi, chúng siết hai cổ tay tôi lại, móc vào cái tời mà kéo lên. Đau khủng khiếp, và một năm sau, tôi phải phẫu thuật vì vụ đó, nhưng lúc đó tôi còn chẳng buồn nghĩ đến nó. Tôi bị va vào mấy thanh rầm gỗ trên đường lên, và cuối cùng dừng lại ở đỉnh một ngọn tháp. Chúng tháo bịt mắt và cho tôi được quan sát cảnh vật. Chỗ đó là rìa hồ, khúc sông hay gì đó, mặt nước rộng tầm một sân bóng đá. Nước có vẻ sâu, màu nâu đục ngầu, và đầy cá sấu. Nhiều khủng khiếp. Đứng cạnh tôi là ba tên vũ trang hạng nặng không mấy thân thiện, và hai đứa nhóc gầy gò, chắc chưa được 18. Da chúng tối màu và gần như chẳng mặc gì. Một đường zip line chạy từ ngọn tháp đi qua cái hồ đến một cái cây phía bên kia. Nếu không có bầy cá sấu, thì đây đúng là màn trượt zip line qua hồ cực đỉnh cho mùa hè. Trước mắt tôi, giờ chỉ thấy được chúng, bầy thú ăn thịt máu lạnh. Đầu tôi đau buốt, còn tim thì như chực nhảy ra khỏi lồng ngực. Chúng lấy một bao đựng đầy gà chết, máu me bê bết, treo lên đường zip line rồi thả xuống. Khi nó đi ngang mặt nước, máu nhỏ xuống khiến lũ cá sấu cuồng lên. Lúc cái bao dừng lại ở giữa hồ, một tên lính kéo sợi dây, và đám gà chết rơi xuống đầu bầy cá sấu. Chắc chúng đói lắm rồi, vì trên mặt nước chúng cuồng loạn cả lên.
“Xong món tráng miệng, giờ đến món chính. Chúng lôi một trong hai thằng bé Latin gầy gò, trói cổ tay vào zip line. Nó la hét khi chúng đẩy nó ra khỏi tháp, và kêu thét dữ dội khi trượt qua hồ. Khi dừng lại giữa hồ, chân nó chỉ cách bầy cá sấu có ba mét. Thằng bé tội nghiệp khóc lóc la hét thảm thiết. Kinh khủng, quá kinh khủng. Một tên cầm súng gạt cần từ từ, và nó rơi xuống dần. Nó giãy giụa điên cuồng, anh cũng tưởng tượng được mà. Nó giãy giụa la hét để cố giữ mạng, nhưng ngay khi chân nó vừa chạm mặt nước, bầy cá sấu liền lao vào cắn xé, đến xương cũng không còn. Tên đó gạt cần tiếp, thằng bé bị chìm sâu hơn nữa. Tôi đã phải chứng kiến cảnh người ta bị ăn tươi nuốt sống.”
Anh nhấp chút bia, bần thần nhìn biển. “Post, không thể nào tả hết nỗi sợ đó, nỗi kinh hoàng tột độ khi phải xem một chuyện như thế và biết chẳng mấy chốc sẽ đến lượt mình. Tôi vãi cả ra quần. Tôi nghĩ mình sắp xỉu luôn rồi. Tôi muốn nhảy, nhưng tên gác đã giữ chặt. Tôi sợ, nỗi sợ không mấy người từng trải qua đâu. Đối diện với đội xử bắn thật kinh khủng, nhưng ít ra ta sẽ chết trong chớp mắt. Còn bị nhai sống thì… thôi.
“Rồi họ treo thằng bé thứ hai lên, tôi nhận ra, một chuyện quá rõ ràng rồi, tôi được sắp xếp ra đi cuối cùng, để chịu thêm cơn ác mộng khủng khiếp là chứng kiến cảnh chết của hai người đầu.
“Đột nhiên, chuyện đổi khác. Tôi nghe có tiếng cười ở bên phải mình, bên kia tòa tháp. Tiếng đàn ông, đang cười vì màn máu me bên dưới, và tôi tự hỏi chúng có thường tụ tập với nhau để bày trò thế này không? Tôi bước lùi lại, nhưng một tên gác chụp tóc tôi xô thẳng vào hàng rào chắn. Những tên này quá đô con và tàn bạo, tôi chẳng đủ khỏe để chống cự, mà có cố cũng chẳng ích gì. Tôi cố tránh mặt đi, không nhìn bữa tiệc máu xương dưới kia, nhưng hắn chộp tóc tôi và rít lên, ‘Nhìn! Nhìn đi!’
“Chúng thả thằng bé thứ hai xuống. Nó hét còn to hơn nữa, và khi bị treo lủng lẳng trên miệng bầy cá sấu, nó giãy giụa và la hét gì đó nghe như ‘Maria! Maria!’ Khi chúng bắt đầu thả nó xuống, tôi nhắm chặt mắt lại. Tiếng thịt bị xé xoẹt xoẹt, xương gãy răng rắc, thật rợn người. Tôi bủn rủn, ngã xuống nằm im không động đậy, nhưng cũng chẳng ích gì. Chúng vả tôi tàn bạo, lôi tôi đứng lên, trói vào zip line, và thả tôi xuống. Tôi lại nghe thấy tiếng cười lớn. Khi đã đến giữa hồ, tôi liếc nhìn xuống. Tôi đã tự nhủ là đừng, nhưng không kìm được. Dưới đó toàn là máu, xương vụn, những mảnh thân thể, và bầy cá sấu điên cuồng đang muốn ăn thêm. Khi nhận ra mình đang bị thả xuống, tôi nghĩ về mẹ và chị tôi, nghĩ họ sẽ chẳng bao giờ biết tôi đã gặp chuyện gì. Mà họ không biết còn hay hơn ấy. Tôi không la hét khóc lóc gì, nhưng không thể không giãy giụa. Ngay lúc con cá sấu đầu tiên định vồ lấy chân tôi, bỗng có ai đó hét lớn bằng tiếng Tây Ban Nha. Tôi bắt đầu được kéo lên.
“Chúng thả tôi khỏi tháp, và đeo bịt mắt vào lại. Tôi đã bủn rủn cả người, không đi nổi, nên chúng tìm một chiếc xe điện. Tôi bị ném lại vào cái hốc lúc trước, nằm co mình trên sàn bê tông nhễ nhại, kêu khóc ít nhất cả tiếng trước khi bọn chúng trở lại. Một tên đánh tôi rồi bẻ quặt hai tay tôi ra sau lưng, tên khác thì tiêm ma túy cho tôi. Lúc tôi tỉnh lại thì thấy mình đang trên đường về Belize, đang nằm trên thùng xe bán tải của hai cảnh sát. Chúng tôi dừng lại trước một nhà tù, tôi theo họ vào trong. Một người cho tôi ly cà phê, người kia thì giải thích rằng hai bạn của tôi rất lo cho tôi. Họ được báo là tôi bị giam vì tội say xỉn nơi công cộng, và tốt nhất tôi cứ bảo với mọi người như thế.
“Khi đã được về lại lều câu, tỉnh trí lại rồi, tôi trò chuyện với hai anh bạn và cố bịa ra một chuyện thật thuyết phục. Tôi bảo họ là mình bị vào tù, chuyện vặt ấy mà, như một cuộc phiêu lưu nhỏ thôi. Vụ bắt cóc diễn ra trong vòng 40 tiếng, và tôi chắc chắn nó cần đến thuyền, trực thăng, máy bay, nhưng trí nhớ của tôi vẫn chưa phục hồi hẳn do ma túy. Tôi gấp rút đi khỏi Belize và về nhà. Từ đó trở đi, tôi không bao giờ tìm đến nhà chức trách của một nước thuộc thế giới thứ ba nữa. Tôi cũng bỏ luôn trò câu cá mòi.”
Tyler dừng lại, nhấp thêm ngụm bia. Tôi cũng quá choáng váng với những chuyện vừa nghe, nhưng cũng cố nói được vài chữ, “Thật quá điên rồ.”
“Tôi vẫn gặp ác mộng vì nó. Tôi phải bịa chuyện với vợ mỗi khi bật dậy hét lên trong cơn ác mộng.”
Tôi chỉ biết lắc đầu.
“Về lại Seabrook, tôi không còn là chính mình. Tôi không ăn, không ngủ được, chẳng dám ở lại văn phòng. Tôi giam mình trong phòng ngủ, cố chợp mắt, bên cạnh luôn để khẩu súng đầy đạn. Tôi kiệt quệ đến mức sụp đổ, vì không ngủ được. Tôi cứ thấy khuôn mặt hai thằng bé đó. Tôi nghe tiếng chúng kêu thét, khóc lóc thảm thiết, tiếng bầy cá sấu đói ăn điên cuồng, tiếng xương gãy, và tiếng cười vẳng xa xa. Tôi đã tính chuyện tự sát, Post à, thật sự muốn chết quách cho rồi.”
Tyler uống cạn chai, và vào tủ lạnh lấy thêm. Anh ngồi xuống, kể tiếp, “Không hiểu sao, tôi lại thuyết phục được mình tin rằng đó chỉ là ác mộng, do rượu và đồ uống bị bỏ thuốc. Một tháng sau, tôi dần xốc lại mình. Rồi tôi nhận cái này qua bưu điện.”
Anh với tay lấy một tập hồ sơ mà nãy giờ tôi không để ý thấy. Khi mở nó ra, anh nói, “Post, tôi chưa hề cho ai xem cái này.” Anh đưa tôi một tấm ảnh màu cỡ 20✕25. Là hình Tyler, đang treo trên zip line, chân chỉ cách cái miệng há to đầy răng lởm chởm của con cá sấu khổng lồ mấy phân. Nỗi kinh hoàng trên gương mặt quá chân thực và kinh khủng không thể nào tả nổi. Ảnh này chụp cận cảnh, nên sau lưng anh không có gì để xác định vị trí và thời gian.
Tôi xem tấm ảnh rồi nhìn Tyler. Anh đang lau nước mắt nơi má, nói giọng yếu ớt, “Tôi cần gọi một cuộc. Chuyện làm ăn. Anh cứ uống thêm chai nữa, 15 phút sau tôi quay lại. Vẫn còn chuyện muốn kể cho anh.”