Chương 23
Tôi đặt tấm ảnh vào tập giấy và để trên bàn, không bao giờ xem lại nó nữa, mong là thế. Tôi bước ra lan can sân thượng, nhìn về phía biển. Quá nhiều ý nghĩ điên rồ cứ xoay trong đầu tôi đến nỗi tôi chẳng biết bắt đầu từ đâu nữa. Nhưng bao trùm mọi suy nghĩ là nỗi sợ. Nỗi sợ đã khiến Tyler phải bỏ ngành luật. Nỗi sợ khiến anh chôn vùi những bí mật của mình, Nỗi sợ khiến tôi phải thấy run khi nghe kể lại một chuyện từ 20 năm trước.
Tôi cứ chìm trong những suy nghĩ mông lung, không nghe thấy Tyler đã quay lại. Tôi giật thót khi anh hỏi, “Anh đang thắc mắc chuyện gì nhất, Post?” Trên tay anh là ly cà phê đen.
“Tại sao chúng không giết anh luôn? Đâu ai biết gì.”
“Đấy là câu hỏi hiển nhiên, và tôi đã mất 20 năm nghĩ về nó. Câu trả lời khả dĩ nhất của tôi là chúng cần tôi. Chúng đã có lời tuyên án. Quincy đã bị tống vào tù mãn kiếp. Chúng hẳn lo ngại chuyện anh ấy kháng cáo, và vì tôi là người thực hiện việc đó, nên chúng muốn tôi bỏ cuộc. Và tôi đã làm thế. Trong đơn kháng cáo, tôi nêu lên mọi vấn đề pháp lý rõ ràng, nhưng giảm giọng điệu. Tôi chấp nhận bỏ cuộc. Tôi đã gửi đơn đi. Anh đọc nó rồi nhỉ?”
“Hẳn rồi, tôi đọc tất cả mọi thứ có liên quan. Hồ sơ kháng cáo của anh rất sắc sảo.”
“Về mặt pháp lý là thế, nhưng tôi chỉ làm chiếu lệ thôi. Thật ra, tôi có cố thì cũng vô ích. Tôi có viết gì đi nữa, Tòa Thượng thẩm Florida cũng không đảo ngược bản án đâu. Quincy chẳng biết gì về chuyện này. Anh ấy tưởng tôi vẫn hăng hái chống lại sự bất công đối với anh ấy, nhưng tôi đã bỏ cuộc.”
“Đằng nào tòa cũng bác bỏ đơn kháng cáo.”
“Chuyện đó biết thừa rồi. Tôi tiếp tục đệ đơn kháng cáo lên Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Vẫn bị bác bỏ như mọi khi. Và tôi bảo Quincy là hết cách rồi.”
“Vì thế mà anh không yêu cầu xét xử hậu tuyên án?”
“Phải, cộng thêm lúc đó chẳng có chứng cứ gì mới. Tôi vẫy cờ trắng và rút. Khỏi cần nói, lúc đó tôi cũng đâu được thù lao gì. Hai năm sau, Quincy trong tù tự đệ đơn, tìm được một luật sư chuyên trách nhà tù nhận lời giúp đỡ, nhưng chẳng đi đến đâu.”
Tyler quay lại bàn, ngồi xuống. Anh thả tập hồ sơ vào chiếc ghế trống. Tôi cũng đến ngôi với anh, cả hai thinh lặng một hồi lâu. “Cứ nghĩ đến chuyện sắp đặt toàn bộ vụ đó đi, Post,” anh mở lời phá tan thinh lặng. “Chúng biết tôi sẽ đi câu cá ở Belize, biết tôi sẽ ở lại chỗ nào, nên hẳn chúng đã nghe lén điện thoại tôi. Thời đó làm gì có Internet, nên chẳng có email để mà hack rồi. Anh cứ nghĩ phải cần bao nhiêu người để chuốc thuốc vào đồ uống của tôi, lôi tôi đi, cho lên thuyền hay máy bay gì đó, đưa tôi đến cái trại nơi chúng bày trò tiêu khiển bằng cách đem kẻ thù làm mồi cho cá sấu. Đường zip line rất xịn, cá sấu thì vừa đông vừa đói.”
“Một băng nhóm có quy củ.”
“Phải, ai đó cực kỳ nhiều tiền, nhân lực và quan hệ với cảnh sát địa phương, thậm chí là tuần duyên và biên phòng, đều là đặc điểm của dân buôn ma túy. Chắc chắn chúng đã khuất phục được tôi. Tôi vẫn đệ đơn kháng án, nhưng chỉ còn cái vỏ bên ngoài. Rồi tôi đi gặp bác sĩ tâm lý, kể rằng tôi bị đe dọa khủng khiếp và chúng có thể làm thật, rằng tôi sụp đổ vì sự thật đó. Bác sĩ giúp tôi phục hồi dần, rồi tôi dọn đồ chuyển đi. Anh cần thêm chứng cứ chứng minh Quincy không giết Russo chứ?”
“Không, chẳng cần câu chuyện này thì tôi cũng có đủ chứng cứ rồi.”
“Đây là bí mật tuyệt đối không được kể với ai, Post. Và đây là lý do tôi sẽ không can dự vào bất kỳ việc gì liên quan đến Quincy.”
“Vậy anh vẫn còn chuyện chưa kể?”
Tyler nhấm nháp cà phê, tư lự một hồi. “Cứ cho là tôi biết gì đó đi.”
“Anh kể cho tôi về Brad Pfitzner được chứ? Tôi cho là hồi đó anh biết khá rõ về ông ta.”
“Hồi đó, có người cũng nghi ngờ Pfitzner, nhưng chỉ dám xì xầm thôi. Vài luật sư chuyên mảng hình sự, kể cả tôi, thì biết nhiều hơn. Ở vịnh, có một cảng nhỏ tên là Lạch Poley, nằm ở Hạt Ruiz, nên dưới quyền kiểm soát của ông ta. Người ta đồn là ông ta bảo kê cho ma túy nhập vào đó rồi chuyển đến những nhà kho ở các vùng hẻo lánh trong hạt trước khi được phân phối đến Atlanta. Nhưng đó chỉ là tin đồn. Pfitzner chưa hề bị bắt hay buộc tội gì cả. Khi đi khỏi đó rồi, tôi vẫn quan sát từ xa và giữ liên lạc với vài người bạn luật sư ở Seabrook. FBI chưa hề đả động gì đến Brad.”
“Còn Kenny Taft?”
“Taft bị giết không lâu sau khi tôi rời Seabrook. Có tin đồn là vụ đó không phải như lời Pfitzner thuật lại. Cũng như vụ Russo, Pfitzner phụ trách điều tra và muốn báo cáo kiểu gì tùy ý. Ông ta còn tổ chức tang lễ rầm rộ, cho cảnh sát xếp hàng hai bên đường. Một màn tiễn biệt hoành tráng cho chiến sĩ ngã xuống.”
“Vai trò của Taft có gì quan trọng không?” tôi hỏi. Tyler lại trầm ngâm ngắm biển. Với tôi, đấy là câu trả lời khá rõ ràng rồi, nhưng anh quay lại bảo, “Tôi chẳng biết. Có lẽ là có gì đó.”
Tôi không muốn ép Tyler nữa. Tôi đã có được quá nhiều thông tin hơn dự kiến, và thế nào chúng tôi cũng còn dịp gặp nhau. Tôi biết anh không muốn nói về chuyện Kenny Taft nên quyết định chuyển sang chủ đề khác.
“Vậy sao lại phải giết Keith Russo?” tôi hỏi.
Tyler nhún vai, như thể câu trả lời quá rõ rồi. “Anh ta làm gì đó chọc giận băng này, và chúng trừ khử. Cách nhanh nhất để xơi kẹo đồng là bép xép. Có lẽ DEA đã ép Russo, khiến anh ta lỡ lời. Trừ khử Russo và đẩy Quincy lãnh tội xong, thì chuyện làm ăn được tiếp diễn như thường lệ. Chúng muốn bản án giữ nguyên để mọi chuyện đâu vào đấy, còn tôi thì đi câu cá và chui thẳng vào bẫy.”
“Pfitzner nghỉ hưu ở quần đảo Keys, trong căn hộ cỡ 1,6 triệu đô,” tôi kể. “Không tệ với một cảnh sát trưởng lương hằng năm cao nhất là 60.000.”
“Và còn chưa học xong trung học, nên có lẽ ông ta phải cực kỳ ranh ma mới lên được chức đó. Tôi cá chắc hầu hết tài sản của ông ta đều ở nước ngoài. Cẩn thận khi tìm hiểu đấy, Post. Có lẽ anh sẽ đụng phải những chuyện mà đến lúc đó anh mới ước gì mình không biết thì hơn.”
“Việc của tôi là thế mà.”
“Nhưng tôi thì không. Mọi chuyện này đều là quá khứ xa vời rồi. Giờ tôi đang sống sung túc, vợ đẹp con xinh. Qua ngày mai, tôi sẽ không dính dáng gì đến chuyện này nữa. Chúc anh may mắn, nhưng tôi không gặp lại anh nữa đâu.”
“Tôi hiểu. Cảm ơn anh đã gặp.”
“Anh muốn thì cứ tự nhiên dùng phòng suite này. Cứ ở lại đây, mai rồi đi xe ra phi trường.”
“Cảm ơn anh, nhưng cho tôi xin phép.”