← Quay lại trang sách

Chương 25

Tôi lái xe trên cao tốc hai làn đi về phía Đông, hiện giờ tôi đang ở Misissipi hoặc Alabama, khó xác định lắm vì rừng thông mấy chỗ này đều trông giống hệt nhau. Thường thì tôi sẽ về Savannah. Đã ba tuần rồi tôi chưa về nhà và thật sự cần được nghỉ ngơi một chút. Điện thoại tôi reo, là Glenn Colacurci, ông luật sư già ở Seabrook.

Hóa ra không phải ông gọi mà là cô thư ký dễ thương Bea, và cô ấy muốn biết khi nào tôi ghé qua gần thành phố họ. Glenn muốn nói chuyện, nhưng muốn gặp nhau đâu đó ngoài Seabrook.

Ba ngày sau, tôi bước vào quán bar The Bull ở Gainesville. Từ bàn ở gần cuối quán, Bea vẫy tay với tôi. Ngồi đối diện cô, ăn diện chỉnh tề là ông Colacurci. Bộ vest sọc lam, áo sơ-mi trắng hồ phẳng phiu, thắt nơ sọc, đeo dây treo quần.

Bea xin phép rồi đi ra, tôi ngồi vào thế chỗ của cô ấy. Cô phục vụ báo là bartender vừa pha chế món cocktail sangria đặc biệt, và chúng tôi nên nếm thử. Chúng tôi gọi hai ly như thế.

“Tôi mê Gainesville,” Glenn bảo. “Tôi từng ở đây bảy năm. Thành phố tuyệt vời. Đại học tuyệt vời. Anh học trường nào thế, Post? Tôi không nhớ.”

Tôi thì nhớ là chưa hề nói gì về chuyện đó với ông. “Đại học Tennessee. Như bài hát Rocky Top ấy.”

Ông thoáng cau mặt, “Tôi không mê bài đó.”

“Còn tôi không mê đội Gators cho lắm.”

“Dĩ nhiên rồi.”

Chúng tôi bỏ qua được mấy chuyện thời tiết, vốn chiếm ít nhất năm phút trong mọi cuộc chuyện trò thông thường của dân miền Nam, trước khi họ chuyển sang 15 phút bàn về bóng bầu dục. Vì muốn tránh lãng phí thời gian, tôi thường hơi khiếm nhã đôi chút.

“Bỏ qua mấy chuyện bóng bầu dục nhé, ông Glenn. Ta đâu đến đây bàn mấy chuyện đó.”

Cô phục vụ đưa ra hai ly sangria hồng hồng rất bắt mắt.

Cô ấy đi rồi, Glenn mới nói, “Hẳn rồi. Thư ký của tôi thấy đơn kiến nghị của anh trên mạng và in ra cho tôi. Tôi không thạo máy tính cho lắm. Phải nói là đơn đó rất hay. Lý luận sắc sảo, lập luận vững vàng, vô cùng thuyết phục.”

“Cảm ơn ông. Việc của chúng tôi mà.”

“Nó khiến tôi nghĩ lại về 20 năm trước. Sau khi Kenny Taft bị giết, đã có đồn đoán rằng tình tiết vụ đó không phải như lời Pfitzner nói. Nhiều người đồn rằng Taft đã bị chính đồng đội phục kích, lính của Pfitzner. Có lẽ cảnh sát trưởng của chúng tôi có liên quan đến buôn bán ma túy, như anh đã hoài nghi. Có lẽ Taft biết quá nhiều. Dù gì, vụ đó đã lắng xuống từ 20 năm trước rồi. Chẳng thấy hung thủ, chẳng có chứng cứ.”

Tôi lịch sự gật đầu với màn mào đầu của ông. Tôi cầm ly lên uống, ông cũng thế.

“Cộng sự của Taft tên là Brace Gilmer, đã trốn được dù bị thương nhẹ, có vẻ cậu ta đã bị đạn bắn sượt qua, nhưng không nghiêm trọng gì. Tôi biết mẹ Gilmer, là thân chủ cũ của tôi. Gilmer rời thành phố không lâu sau vụ đó và không bao giờ quay lại. Vài năm sau, tôi tình cờ gặp mẹ cậu ta, chắc đâu đó 15 năm trước, và chuyện trò đôi chút. Bà kể với tôi rằng Brace tin mình cũng là mục tiêu triệt hạ tối đó, nhưng may mà thoát chết. Gilmer và Taft cùng tuổi, vào năm đó là 27, rất thân nhau. Taft là cảnh sát da đen duy nhất và không có nhiều bạn cho lắm. Taft cũng biết gì đó về vụ sát hại Russo, ít nhất là Gilmer bảo vậy. Anh từng nói chuyện với Gilmer chưa?”

“Vẫn chưa.” Chúng tôi chưa tìm được viên cảnh sát đó. Vicki có thể dò ra bất kỳ ai trong vòng 24 tiếng, nhưng cho đến giờ, không hiểu sao Brace Gilmer vẫn ngoài tầm với của chúng tôi.

“Tôi cũng nghĩ thế. Mẹ cậu ta đã chuyển đi lâu rồi. Tuần trước, tôi tìm ra bà ấy đang ở một nhà hưu dưỡng gần Winter Haven. Bà ấy già hơn tôi, sức khỏe không ổn, nhưng chúng tôi chuyện trò qua điện thoại vui vẻ lắm. Anh nên nói chuyện với Gilmer đi.”

“Có lẽ vậy,” tôi cố thận trọng không để lộ. Hiện giờ, Gilmer là người tôi muốn gặp nhất.

Glenn đưa cho tôi danh thiếp của ông. Mặt sau có cái tên nguệch ngoạc: Bruce Gilmer. Địa chỉ là ở Sun Valley.

“Idaho?” tôi hỏi.

“Cậu ta vào Thủy quân Lục chiến và gặp được một cô gái ở đó. Bà mẹ nghĩ có lẽ con trai mình không thích nói nhiều. Cậu ta đã hoảng sợ và bỏ chạy khỏi Seabrook từ lâu rồi.”

“Và đổi tên.”

“Có vẻ thế.”

“Nếu anh ấy không muốn nói chuyện, sao bà mẹ lại cho ông địa chỉ?” tôi hỏi.

Ông đưa ngón tay xoay xoay một bên đầu, ý chỉ đầu óc bà ấy có vấn đề. “Có lẽ tôi gặp may thôi.” Ông cười như mình khôn khéo khủng khiếp và uống một hơi dài ly cocktail của mình. Tôi cũng nhấp một miếng. Cái mũi to của ông đỏ bừng, đôi mắt sáng lên, và bản thân tôi cũng bắt đầu thấy ngấm thứ rượu này.

Ông nói tiếp, “Vài tuần trước, tôi đã uống với một luật sư già ở Seabrook, anh không biết ông ấy đâu. Chúng tôi từng là cộng sự, nhưng ông ấy bỏ nghề sau khi vợ mất và để lại cho ông một số tiền kha khá. Tôi kể cho ông ấy về anh và giả thuyết của anh, đưa cả một bản đơn của anh nữa. Ông ấy bảo từ xưa đến giờ vẫn luôn nghi là Pfitzner cố tình bắt nhầm người vì mục đích của mình. Keith biết quá nhiều và phải bị trừ khử. Nói thẳng, Post à, hồi xảy ra án mạng, tôi chẳng nhớ có ai nói mấy chuyện kiểu đó.”

Mấy tin đồn xa xưa này chẳng ích lợi gì. Sau khi chính quyền gấp rút ra phán quyết, lẽ tự nhiên sau nhiều năm, sẽ có vài người đặt lại vấn đề. Hầu hết những người khác thì chỉ thấy nhẹ nhõm khi có người bị kết tội và vụ án khép lại.

Tôi đã có thông tin tôi cần, và có lẽ Glenn không còn gì nữa để tôi phải tìm hiểu. Uống hết ly của mình, mắt ông bắt đầu trĩu xuống. Có lẽ bữa trưa nào ông cũng làm một ly và ngủ cho hết buổi chiều.

Chúng tôi bắt tay từ biệt như hai người bạn cũ. Tôi ngỏ ý trả tiền rượu, nhưng ông lại muốn gọi thêm ly nữa. Khi tôi bước ra khỏi quán, Bea bỗng từ đâu xuất hiện với nụ cười thân thiện, nhã nhặn tạm biệt tôi và hẹn gặp lại.

Kenny Taft ra đi, để lại người vợ đang mang thai, Sybil, và đứa con hai tuổi. Sau khi anh chết, Sybil trở về quê mình, thành phố Ocala, làm giáo viên phổ thông, tái hôn và sinh thêm một người con nữa.

Khi màn đêm xuống, Frankie nhẹ nhàng tiến vào thành phố và tìm nhà cô, một ngôi nhà lệch tầng ở khu ngoại ô. Vicki đã tìm hiểu và biết chồng Sybil là hiệu trưởng trường trung học. Nhà họ được định giá 170.000 đô-la, đóng thuế năm ngoái là 18.000 đô-la. Họ đang có một khoản vay từ tám năm trước. Cả hai chiếc xe đều mua trả góp. Rõ ràng, cô và chồng sống bình lặng ở khu vực trung lưu của thành phố.

Và Sybil chẳng muốn cuộc sống mình bị xáo trộn. Khi Frankie gọi, cô bảo là không muốn nói gì về người chồng quá cố. Bi kịch của Kenny xảy ra đã hơn 20 năm trước, và phải rất lâu cô mới nguôi ngoai. Việc không hề tìm được thủ phạm càng khiến cô thêm đau lòng. Cô chẳng biết thông tin gì đặc biệt cả. Frankie cố thúc ép một chút và cô nổi giận, dập máy liền. Anh đã báo lại cho tôi, và chúng tôi quyết định tạm thời không đả động đến cô nữa.

Lái xe liên tục ba ngày từ Savannah đến Boise còn dễ hơn bay đến đó. Vì vấn đề thời tiết ở khu vực nào đó giữa quãng đường bay, nên trong 15 tiếng ngồi chờ vô vọng ở sân bay Atlanta, tôi thấy các chuyến bay bị hủy liên tục. Tôi bèn ra ngồi ở quầy bar, ngắm những người bị trễ chuyến cáu kỉnh đi vào, rồi vài tiếng sau, loạng choạng đi ra. Nhìn họ, tôi lại thấy mừng vì mình chẳng mê rượu. Cuối cùng tôi cũng bay đến được Minneapolis, nhưng lại được báo tin chuyến bay tôi đặt đi Boise bị quá chỗ. Tôi xin vào danh sách chờ, chờ mãi, và cuối cùng lấy được ghế trống cuối cùng. Chúng tôi đến Boise lúc 2:30 sáng, và dĩ nhiên chiếc xe tôi thuê không chờ sẵn vì bàn dịch vụ thuê xe đã đóng cửa.

Hơi nản, nhưng cũng không thành vấn đề. Tôi không hẹn trước với ai ở Sun Valley. Bruce Gilmer chẳng biết tôi đang đến.

Tôi có phòng ở một khách sạn rẻ tiền nằm lọt thỏm giữa khu vực resort nổi tiếng này, nhờ ơn Vicky cả. Trời vừa bình minh, tôi cũng lê mình vào được căn phòng nhỏ của khách sạn ọp ẹp nằm ở Ketchum, rồi chợp mắt vài tiếng.

Gilmer làm quản lý sân golf ở một resort tại Sun Valley này. Chúng tôi chẳng có nhiều thông tin về Gilmer, nhưng theo chúng tôi được biết, không có hồ sơ ly hôn nào của Brace hay Bruce Gilmer, nên chúng tôi cho rằng anh vẫn đang sống cùng vợ cũ. Và ngay cả Vicki cũng không tìm được hồ sơ pháp lý nào về việc Brace đổi tên thành Bruce cả. Nhưng theo tôi thấy, anh đã rũ bỏ Seabrook và làm lại cuộc đời mới khá là thành công. Hiện tại, anh 47, kém tôi một tuổi.

Khi lái xe từ Ketchum đến Sun Valley, tôi không thể rời mắt khỏi những ngọn núi và cảnh vật ở đây. Thời tiết đẹp như mơ. Ở Savannah lúc tôi đi, trời nóng 35 độ, ẩm ướt khủng khiếp. Còn ở đây chỉ tầm 18 độ và vô cùng khô ráo.

Resort tôi muốn đến thuộc loại đặc quyền, chỉ thành viên mới được vào, nên hơi phiền phức một chút. Nhưng cái cổ áo linh mục luôn hữu ích. Tôi đeo cổ áo vào và dừng trước cổng. Tôi nói với bảo vệ là mình có hẹn với Bruce Gilmer. Cậu ấy kiểm tra danh sách, trong khi xe dừng sau tôi cả hàng dài. Hầu hết đều là dân chơi golf nôn nóng muốn ra sân. Cuối cùng, cậu bảo vệ cũng cho tôi qua.

Tôi dừng ở cửa hàng thể thao, hỏi về Gilmer và được chỉ đường. Văn phòng của anh ở trong một tòa nhà khuất tầm mắt, xung quanh toàn là máy cày, máy cắt và máy tưới. Tôi hỏi một nhân viên và được chỉ về một người đang đứng dưới mái hiên nói chuyện điện thoại. Tôi nhẹ nhàng tiến đến sau lưng và chờ đợi. Khi thấy cuộc điện thoại đã xong, tôi tiến tới chào, “Xin lỗi, anh có phải Bruce Gilmer không?”

Anh ta quay người lại, nhìn tôi, thấy ngay cái cổ áo và có lẽ cho rằng tôi là một nhà mục vụ gì đó chứ không phải một luật sư lắm chuyện đang đào bới quá khứ của anh.

“Phải. Còn anh là?”

“Cullen Post, ở Hội Mục vụ Vệ nhân,” tôi nói và đưa danh thiếp ra. Tôi làm màn này quá nhiều lần đến mức mượt mà hoàn hảo rồi.

Anh đọc kỹ tấm danh thiếp, chầm chậm đưa tay ra, “Hân hạnh gặp anh.”

“Tôi cũng thế.”

“Tôi giúp gì được cho anh?” Bruce hỏi, kèm một nụ cười. Dù gì anh cũng làm trong ngành dịch vụ. Khách hàng là trên hết.

“Tôi là một linh mục Giáo hội Giám nhiệm và cũng là luật sư, chuyên giải oan. Tôi làm việc với các thân chủ bị kết tội sai và cố trả tự do cho họ. Những người như Quincy Miller. Anh ấy đang là thân chủ của tôi. Anh có thể nói chuyện với tôi một lát được không?”

Nụ cười tắt ngấm, và Bruce liếc quanh. “Nói về chuyện gì chứ?”

“Kenny Taft.”

Hai vai Bruce thõng xuống, làu bàu gì đó và cười. Có lẽ anh không tin nổi chuyện trước mắt mình, “Anh đùa tôi rồi.”

“Nghe này, tôi là người tốt, được chứ? Tôi không đến đây để đe dọa hay làm lộ danh tính của anh. Kenny Taft biết gì đó về vụ án mạng Keith Russo và có lẽ anh ấy đã đem nó xuống mồ, hoặc không. Tôi chỉ đang lần theo manh mối, anh Gilmer à.”

“Cứ gọi tôi là Bruce.” Anh hất hàm về phía một cánh cửa, “Vào văn phòng tôi đi.”

Ơn trời, anh ấy không có thư ký. Hầu hết thời gian làm việc của anh là ngoài trời, và văn phòng của anh trông như chỗ của thợ sửa đồ đạc hơn là cho dân dùng laptop. Chỗ này chỗ kia đều có mấy thứ lặt vặt, trên tường là những tấm lịch cũ thậm chí từ mấy năm trước. Anh chỉ một cái ghế mời tôi, rồi ngồi vào bàn.

“Sao anh tìm được tôi?” anh hỏi.

“Tôi tình cờ đi ngang chỗ này thôi.”

“Không. Tôi hỏi thật.”

“Thật ra, anh đâu có trốn, Bruce. Và cái tên Brace có vấn đề gì à?”

“Anh biết được chừng nào?”

“Nhiều lắm. Tôi biết Quincy Miller không giết Keith Russo. Hung thủ thật sự là một sát thủ của băng đảng ma túy, và có vẻ Pfitzner đã che đậy cho chúng. Tôi nghĩ việc tìm ra kẻ chủ mưu có vẻ là bất khả thi, nhưng tôi không cần phải làm tới mức đó. Tôi chỉ cần chứng minh Quincy vô tội là đủ.”

“Thế thì chúc anh may mắn.” Bruce bỏ mũ xuống, vuốt tóc.

“Vụ giải oan nào cũng lâu dài vất vả cả, nhưng chúng tôi thường thắng hơn thua. Tôi đã cứu được tám người ra khỏi tù.”

“Đấy là công việc chính của anh luôn à?”

“Anh hiểu đúng rồi đấy. Hiện tại, tôi đang lo cho sáu người, kể cả Quincy. Nhân tiện, anh biết anh ấy chứ?”

“Không. Anh ta là dân gốc Seabrook, như Kenny Taft vậy, còn tôi là dân Alachua. Chưa hề gặp anh ta.”

“Vậy anh không tham gia điều tra vụ đó?”

“Phải, không chút nào cả. Pfitzner phụ trách vụ đó và không cho ai mó tay vào.”

“Anh quen Russo chứ?”

“Không hẳn là quen. Tôi có biết anh ta, từng thấy anh ta nhiều lần ở các phiên tòa. Thành phố nhỏ xíu mà. Anh tin chắc Quincy Miller không phải hung thủ sao?”

“Một trăm phần trăm.”

Bruce trầm ngâm một lát. Anh ngồi gần như bất động, đôi mắt mở to, mơ hồ, không chớp. Anh sốc vì có người lần theo danh tính cũ của anh, nhưng lại có vẻ không phải vì bản thân anh.

Tôi mở lời, “Tôi muốn hỏi một câu, Bruce. Anh vẫn đang trốn tránh sao?”

Anh cười, “Không hẳn. Đã lâu quá rồi. Tôi và vợ đã vội vã rời đi, ngay nửa đêm, muốn bỏ lại nơi đó càng sớm càng tốt, và thậm chí vài năm sau tôi vẫn còn sợ hãi cảnh giác.”

“Nhưng tại sao? Tại sao anh bỏ đi, và anh sợ cái gì?”

“Post à, chuyện đó tôi không chắc là nên kể cho anh. Tôi đâu biết anh, anh đâu biết tôi. Tôi đã bỏ hẳn ngành cảnh sát từ khi rời Seabrook và không bao giờ muốn đả động gì chuyện đó nữa.”

“Tôi hiểu. Nhưng có lý do gì để tôi đem chuyện này kể cho ai đâu. Anh đâu phải nhân chứng trong vụ của Quincy. Dù có muốn tôi cũng đâu thể buộc anh về lại Seabrook. Anh chẳng có gì để ra trước tòa làm chứng cả.”

“Thế anh đến đây làm gì?”

“Vì tôi tin Kenny Taft biết gì đó về vụ án mạng Russo và tôi rất muốn biết đó là gì.”

“Kenny đâu nói được gì nữa.”

“Phải. Nhưng anh ấy từng kể gì với anh về Russo không?”

Bruce ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi lắc đầu. “Tôi không nhớ gì cả,” anh nói, nhưng tôi không nghĩ là anh đang nói thật. Bruce không thoải mái nên muốn chấm dứt câu chuyện này và đổi sang chủ đề khác. “Do tay một băng đảng, kiểu như sát thủ giết mướn?”

“Đại loại thế.”

“Sao anh chắc chắn được? Tôi nghĩ rõ ràng Miller đã giết tay luật sư.”

Sao tôi chắc chắn được à? Hình ảnh Tyler đung đưa cách miệng cá sấu mấy phân hiện lên trong đầu tôi. “Tôi không thể nói rõ với anh mọi chuyện tôi biết, Bruce. Tôi là luật sư và hầu hết những thứ tôi xử lý đều bảo mật.”

“Tùy anh thôi. Mà hiện giờ tôi bận chút việc rồi.” Anh liếc nhìn đồng hồ, và ra vẻ như đang có việc gấp, dù anh diễn dở tệ. Rồi anh mời tôi về.

“Được. Tôi ở lại đây nghỉ ngơi vài ngày. Lúc nào đó ta nói chuyện được chứ?”

“Nói về chuyện gì?”

“Tôi muốn biết đã có chuyện gì vào đêm Kenny bị giết.”

“Chuyện đó có ích lợi gì cho thân chủ của anh?”

“Đời lắm chữ ngờ mà, Bruce. Việc của tôi là điều tra và điều tra. Anh có số tôi rồi đấy.”