← Quay lại trang sách

Chương 26

Tôi đi cáp treo lên đỉnh Bald Mountain rồi từ từ rảo bộ xuống 1500 mét đường. Về mặt sức lực, sức bền, tôi yếu kinh khủng, và lại có nhiều cớ để bao biện cho tình trạng này. Đầu tiên là lối sống này đây mai đó của tôi đâu cho tôi có cơ hội vào phòng gym luyện tập. Và mấy nhà nghỉ cùi bắp mà Vicki tìm được với giá rẻ không tưởng chắc chắn chẳng có mấy dịch vụ fitness rồi. Lý do thứ hai là tôi dành quá nhiều thời gian để ngồi thay vì đứng hay đi lại. Cái hông 48 tuổi đời của tôi bắt đầu đau, và tôi biết vô số giờ lái xe bất tận là nguyên do. Nhưng mặt tốt là, tôi ăn uống cực kỳ ít, ít nhất có thể, và cả đời chưa hề hút thuốc. Lần cuối tôi đi khám là từ hai năm trước và bác sĩ bảo tôi có vẻ ổn cả. Nhiều năm trước, ông bảo tôi bí quyết để sống lâu khỏe mạnh là ăn càng ít càng tốt. Tập thể dục quan trọng đấy, nhưng không thể đảo ngược tác hại của quá nhiều calo hấp thụ. Tôi đã cố theo lời khuyên của ông.

Thế nên, để mừng chuyến đi bộ đường trường này, tôi dừng chân một nhà nghỉ gần chân núi, ăn burger pho-mát và uống hai chai bia dưới ánh hoàng hôn. Tôi chắc chắn chỗ này vào mùa đông sẽ kinh khủng lắm, nhưng vào trung tuần tháng Bảy thì nó đúng là đẹp tựa thiên đường.

Tôi gọi cho văn phòng của Bruce Gilmer, không ai nghe máy. Tôi sẽ thử vận may với Bruce thêm hôm nay và ngày mai, sau đó sẽ đi khỏi đây. Tôi thấy có lẽ không đáng để tôi thử đến đây thêm lần nữa. Nếu sau này chúng tôi còn cơ hội trao đổi, chắc chỉ là qua điện thoại.

Tôi tìm được một thư viện ở Ketchum và đóng đô lại đó. Tôi đem theo cả chồng tài liệu cần đọc, trong đó có đánh giá sơ bộ của Hội Vệ nhân về một thân chủ tiềm năng ở Bắc Carolina. Joey Barr đã ngồi tù bảy năm vì tội cưỡng hiếp mà cậu không phạm. Người bị hại cũng đồng ý như thế. Cả hai đều thề rằng quan hệ của họ hoàn toàn đồng thuận. Joey da đen, cô ấy da trắng, và năm cả hai mới 17 tuổi, cha cô bé bắt gặp cả hai đang nằm chung giường. Người cha đã đệ đơn kiện, dùng hết mọi mưu chước và mối quen biết, cho đến khi Joey bị kết tội bởi bồi thẩm đoàn gồm toàn người da trắng. Mẹ của cô bé, vốn đã ly hôn và khinh bỉ chồng cũ, đã đứng lên bảo vệ Joey sau khi cậu bị tống vào tù. Hai mẹ con đã dành suốt năm năm qua để thuyết phục các tòa phúc thẩm và bất kỳ ai chịu lắng nghe về sự vô tội của Joey.

Điển hình cho những gì tôi đọc mỗi ngày. Nhiều năm rồi, tôi chẳng có được thú vui xa xỉ là đọc cho xong một quyển tiểu thuyết nào, nhưng những cái tôi đọc còn lâm ly bi đát hơn tiểu thuyết nhiều.

Chúng tôi tin rằng mình sắp đưa được Duke Russell ra khỏi tù, nên có lẽ đã đến lúc cần chuẩn bị để bắt đầu tìm đường giải oan cho một người mới.

Tôi đang ngồi trong phòng đọc ở tầng trệt của thư viện công Ketchum, nghiên cứu mớ giấy tờ rải khắp chiếc bàn nhỏ, thì bỗng chuông điện thoại reo lên. Bruce vừa tan làm và muốn nói chuyện.

Anh lái một chiếc golf cart chở tôi dạo quanh các lỗ đang tấp nập golf thủ cố tận dụng một ngày không mây hoàn hảo cho môn thể thao này. Anh dừng xe ở một gò nhỏ nhìn ra con lạch đẹp tuyệt vời.

“Đẹp quá,” tôi nói, thả mình chiêm ngưỡng những ngọn núi xa xa.

“Anh có chơi golf không?” Bruce hỏi.

“Không. Chưa hề. Chắc anh phải chấp tôi rồi.”

“Sẽ có lúc, nhưng giờ thì chịu. Không đủ thời gian. Một trận mất chừng bốn tiếng, và giờ cũng chẳng có chỗ mà chơi. Sáng nay tôi đã gặp luật sư của mình rồi. Anh ấy đang ở đồi số 10 đằng kia.”

“Anh ấy nói sao?” tôi hỏi.

“Không gì nhiều. Thỏa thuận thế này đi, Post. Tôi sẽ không nói gì có thể khiến tôi bị liên can đến vụ này, mà tôi cũng đâu biết gì. Tôi sẽ không ký bản khai có tuyên thệ và nếu có lệnh tòa, tôi cũng mặc kệ. Không một tòa nào ở Florida có quyền gì với tôi.”

“Tôi đâu yêu cầu mấy chuyện đó.”

“Tốt. Anh đã nói muốn nghe về chuyện xảy ra đêm chúng tôi bị phục kích. Anh biết được gì rồi?”

“Chúng tôi có bản sao báo cáo của cảnh sát bang Florida. Theo Đạo luật Tự do Thông tin. Nên chúng tôi biết các tình tiết căn bản, biết những gì anh đã nói với các nhà điều tra.”

“Tốt. Tôi không kể hết cho họ, có lẽ anh cũng đoán được vậy rồi. Tôi bị thương nhẹ ở vai, nằm trong bệnh viện hai ngày trước khi gặp bất kỳ ai. Tôi có thời gian để suy tính. Post à, tôi chắc chắn Pfitzner đã sắp đặt vụ phục kích và đẩy chúng tôi vào cửa tử. Tôi chắc chắn Kenny là mục tiêu, nhưng họ cũng cố giết cả tôi, và nếu không nhờ thần may mắn, chắc họ đã thành công rồi.”

“May mắn à?”

Anh ấy đưa một tay lên, ý bảo tôi cứ từ từ.

“Con đường ở đó hẹp, hai bên là rừng khá rậm. Trời rất tối, ba giờ sáng mà. Chúng tôi bị bắn từ hai bên và phía sau, nên hẳn phải có vài tay súng. Trời ơi, kinh khủng lắm. Khi lái đến đó, chúng tôi còn nói cười thoải mái, chẳng lo nghĩ gì cả, rồi đột nhiên ánh sáng lóe lên, cửa kính sau vỡ toang, cửa hông cũng dính đạn, quá khủng khiếp kinh hoàng. Tôi còn chẳng nhớ mình dừng xe kiểu gì nữa, nhưng tôi đã dừng xe được, trượt ra ngoài, chui xuống một cái rãnh, đạn nã vào cửa xe phía bên tôi, tiếng súng liên thanh khắp nơi. Tôi nghe tiếng Kenny khi anh ấy trúng đạn. Ngay sau đầu. Tôi có khẩu súng lục đầy đạn nhưng trời tối đen như mực. Rồi tiếng súng dừng đột ngột như khi nó bắt đầu. Tôi có thể nghe tiếng nhiều người đang di chuyển trong rừng. Chúng không rời đi, mà lại đang tiến đến chỗ tôi. Tôi hé nhìn qua các ngọn cỏ, thấy một bóng người, liền nổ súng. Trúng ngay hắn. Phát đó cực chuẩn luôn, Post à. Hắn rú lên, rồi la hét gì đó, và Post này, không phải bằng tiếng Tây Ban Nha. Hoàn toàn không. Nghe giọng là tôi biết ai là người vùng này, và gã đó chắn chắn lớn lên trong phạm vi 80 cây số của Seabrook. Đột nhiên chúng rơi vào thế khó, một đồng bọn bị thương, thậm chí là chết. Hắn cần được cứu chữa, nhưng chúng biết đi đâu bây giờ? Tôi thì không giúp chúng được rồi. Thế là chúng rút lui, biến mất vào rừng. Tôi chờ đợi, thấp thỏm chờ đợi, rồi nhận ra tay mình đang chảy máu. Sau vài phút, có thể là năm cũng có thể là ba chục phút, chẳng biết nữa, tôi bò về chỗ xe mình và thấy Kenny. Anh ấy quá thảm. Viên đạn bắn từ sau xe, xuyên qua đầu, thổi bay gần nửa khuôn mặt. Với phát đó, thì chết ngay lập tức. Anh còn trúng vài phát ở thân trên nữa. Tôi lấy súng của Kenny, bò dọc rãnh được tầm sáu mét gì đấy, rồi nấp đó. Tôi dỏng tai lắng nghe rất lâu, nhưng chẳng có gì ngoài tiếng rừng đêm. Tối đó trời không trăng, một màu đen phủ kín không gian. Theo báo cáo tổng đài, tôi gọi về lúc 4:02 phút, nói chúng tôi bị phục kích. Kenny đã chết. Pfitzner là người đầu tiên đến đó, một chuyện rất lạ. Cũng như lần ông ta là người đầu tiên đến văn phòng của Russo vậy.”

“Có lẽ ông ta đã ở trong rừng chỉ đạo toàn bộ vụ này,” tôi nói.

“Có lẽ thế. Họ đưa tôi đến bệnh viện để khám, không bị thương gì nặng. Chỉ bị chảy máu do đạn vượt qua. Nhưng tôi cũng xin thuốc và họ cho tôi thuốc ngủ, mê man luôn. Tôi đã bảo bác sĩ là không muốn nói chuyện với ai trong một vài ngày, và họ đã làm thế cho tôi. Khi cuối cùng Pfitzner cũng đến, dắt theo vài người của bang, tôi không kể phần đã bắn trúng một tên trong bọn phục kích hay chuyện tôi biết chắc chắn hắn không phải dân nói tiếng Tây Ban Nha.”

“Tại sao?

“Pfitzner muốn cả hai chúng tôi chết, Post à. Ông ta muốn trừ khử Kenny vì anh ấy biết gì đó, và vì tôi đi cùng chuyến xe, nên cũng cần khử luôn cả tôi cho an toàn. Để lại nhân chứng sẽ phiền phức lắm. Cứ nghĩ đi, Post. Một cảnh sát trưởng dân cử, được cả cộng đồng tin tưởng, lại đẩy hai lính của mình vào ổ phục kích để đoạt mạng cả hai. Bradley Pfitzner là thế đấy.”

“Ông ta còn sống, anh biết chứ?”

“Tôi chẳng quan tâm. Chuyện của tôi với ông ta đã chấm hết từ 20 năm trước rồi.”

“Anh đã kể gì với ông ta ở bệnh viện?”

“Tất cả, trừ phần tôi bắn trúng một tên trong bọn. Tôi chưa hề kể cho ai phần đó, và nếu ngày mai anh nhắc lại, tôi sẽ chối biến ngay.”

“Vậy anh vẫn còn sợ?”

“Không, Post à. Tôi không sợ. Tôi chỉ không muốn gặp rắc rối gì thôi.”

“Sau đó, anh không biết tin gì về gã bị anh bắn sao?”

“Chẳng có gì. Thời đó đâu có Internet, chuyện tìm kiếm khó hơn nhiều. Tôi đã điều tra kỹ, đủ để biết có hai người bị bắn nhập viện Bệnh viện công Tampa vào ngày đó. Một người bị kẻ đột nhập bắn, thủ phạm đã bị bắt. Người kia được tìm thấy đã chết trong một con hẻm. Tôi chẳng thể chứng minh được gì, nên cũng không để tâm đến nữa. Thời điểm đó, vợ chồng tôi đã quyết định rời đi.”

“Sau vụ đó, Pfitzner đối xử với anh thế nào?”

“Vẫn như cũ. Ông ta luôn cực kỳ chuyên nghiệp, một cảnh sát hoàn hảo, một lãnh đạo giỏi tin tưởng vào kỷ luật. Ông ta cho tôi nghỉ có lương một tháng từ sau tang lễ của Kenny, và làm đủ việc khác để thể hiện sự quan tâm của cấp trên. Ông ta gian xảo đến thế đấy. Dân ở đó, ai cũng ngưỡng mộ ông ta, chẳng ai tin ông ta biến chất.”

“Trong lực lượng, có cảnh sát nào biết sự thật không?”

“Chúng tôi từng nghi ngờ. Pfitzner có hai trợ thủ, là Mẻ và Ngậm. Chúng là hai anh em, là nắm đấm thép để làm những chuyện bẩn thỉu. Arnie có hàm răng hô, cái nào cũng bự chảng, một cái còn bị mẻ, nên chúng tôi sau lưng đều gọi hắn là Mẻ. Amos, thì răng nhỏ hơn, nhưng có môi dưới úc núc, lúc nào cũng ngậm một miếng thuốc lá nhai, nên có tên là Ngậm. Dưới hai tên này, còn có vài tên nữa nhận lương từ bọn buôn ma túy, nhưng chúng tách bạch chuyện bẩn thỉu này với công việc thường lệ của cảnh sát hạt. Pfitzner là cảnh sát trưởng giỏi mà. Ông ta đã quy phục trước sức cám dỗ của đồng tiền ma túy từ lâu trước khi tôi đến đó làm cảnh sát. Ông ta bảo kê cho cảng, xếp đặt cho tàu chở hàng vào trót lọt, cung cấp khu vực an toàn để trữ hàng, đủ thứ. Tôi chắc là ông ta kiếm rất bộn, Mẻ và Ngậm cùng đám kia cũng có phần. Còn đám sạch sẽ chúng tôi thì chỉ ăn lương bổng nhà nước.”

Bruce quay sang vẫy tay với hai cô xinh đẹp đang ngồi golf cart, họ cũng vẫy lại. Anh đi sau họ rồi rẽ qua một cây cầu nhỏ, đến một góc khá kín dưới tán cây. Khi đã có chỗ ngồi ổn định, tôi hỏi, “Vậy Kenny biết được chuyện gì?”

“Tôi không biết, anh ấy chưa hề nói gì. Anh ấy có nói bóng gió một lần, nhưng chưa hề nói rõ gì cả. Anh cũng biết vụ hỏa hoạn đã hủy hoại kho chứng cứ chứ, vụ đã hủy luôn cả chứng cứ trong án mạng của Russo?”

“Có, tôi đã xem báo cáo rồi.”

“Hồi nhỏ, Kenny mơ làm điệp viên. Có vẻ hơi lạ so với một đứa trẻ da đen vùng thôn quê Florida, nhưng anh ấy mê sách và tạp chí điệp viên lắm. CIA đâu có nhận, nên anh ấy đành làm cảnh sát. Anh ấy giỏi công nghệ và mấy thứ máy móc tân tiến. Có lần, bạn của anh ấy nghĩ vợ đang cắm sừng mình, và đã cậy nhờ Kenny. Chỉ trong vài phút, anh ấy đã cài xong thiết bị bổ trợ vào đường dây điện thoại của nhà anh bạn. Nó ghi lại mọi cuộc gọi và anh ấy mở ra kiểm tra mỗi ngày. Không lâu sau, anh đã nghe được cuộc điện thoại của cô vợ bàn chỗ hẹn hò với gã bồ. Bạn của Kenny bắt được họ tại trận, tẩn cho gã kia nhừ tử, tát tai cô vợ nữa. Kenny tự hào về chuyện đó lắm.”

“Vậy anh ấy đã nghe được gì?”

“Chuyện gì đó về vụ tiêu hủy chứng cứ. Vài ngày trước khi Russo bị giết đã có một vụ cưỡng hiếp, da trắng với nhau, và nạn nhân nói là chưa hề thấy mặt thủ phạm, nhưng biết hắn là da trắng. Nghi phạm hàng đầu là một đứa cháu của Mẻ và Ngậm. Chứng cứ cưỡng hiếp cũng nằm trong kho lều đó, vì trong trụ sở hết chỗ rồi. Khi kho bị cháy, nó cũng tiêu tan cùng các chứng cứ giá trị khác. Có lần tôi và Kenny tạt vào uống cà phê khi đang đi tuần đêm, thư giãn một chút, thì anh ấy nói gì đó ngụ ý vụ cháy không phải là tai nạn. Tôi muốn hỏi thêm, nhưng lại có cuộc gọi nên phải đi. Sau đó, tôi có hỏi lại, và anh ấy bảo đã nghe lỏm Mẻ và Ngậm bàn chuyện đốt kho.”

Bruce nói xong thì im lặng, không nói gì nữa. Sau một lát, nhận ra có lẽ anh đã kể xong rồi, tôi mới hỏi bồi, “Không còn gì nữa à?”

“Tôi chỉ biết chừng đó thôi, Post, tôi thề đấy. Sau nhiều năm ngẫm nghĩ, tôi cho là Kenny hẳn đã gài thiết bị nghe lén vào các điện thoại trong văn phòng. Anh ấy nghi ngờ Pfitzner và hội của ông ta dính líu đến ma túy nên muốn tìm bằng chứng. DEA đang soi mói chỗ này chỗ kia, và còn có tin đồn FBI sắp đến nữa. Chúng tôi có thể bị chết chùm không? Liệu Pfitzner có đổ tội cho chúng tôi không? Tôi chẳng biết, chỉ có thể đoán mò mà thôi, nhưng có lẽ Kenny đã nghe lén họ và đã nghe được gì đó.”

“Giả thuyết như vậy là hơi xa vời đấy.”

“Đúng là như thế.”

“Và anh chẳng biết Kenny đã nghe được chuyện gì thật à?”

“Tôi chẳng biết gì, Post à. Một chút cũng không.”

Bruce khởi động xe và chúng tôi lại rong ruổi trên sân golf. Khung cảnh đồi núi thung lũng đẹp như tranh hiện ra sau mỗi khúc cua. Chúng tôi đi trên chiếc cầu gỗ hẹp bắc qua con suối, đến bãi phát bóng lỗ số 13, nơi luật sư của anh đang chơi. Chúng tôi hỏi thăm vài câu, rồi anh chàng kia lại tiếp tục quay đi, tập trung vào quả bóng golf hơn là thân chủ của mình. Về đến tiền sảnh, tôi cảm ơn Bruce vì đã tử tế dành thời gian cho tôi. Chúng tôi hứa sẽ sớm chuyện trò lại với nhau, dù trong lòng cả hai biết thừa sẽ không bao giờ như thế.

Chuyến đi lần này dài ngày, thú vị, mà thành quả lại chẳng bao nhiêu. Tuy nhiên, trong ngành này, đó là chuyện thường. Nếu Kenny Taft biết gì đó, hẳn anh cũng đem theo xuống mồ rồi.