← Quay lại trang sách

Chương 28

Hôm sau, tôi và Vicki về Savannah, vừa đến nơi liền họp với Mazy để đánh giá vụ này. Florida, cũng như Alabama, không bắt buộc các thẩm phán phải có hạn chót phán quyết về các vấn đề hậu tuyên án, thế nên có khi ông già Plank xuống lỗ rồi mà vẫn chưa giải quyết cho chúng tôi mất. Chúng tôi cũng nghĩ là ông ta đã có quyết định sẵn rồi, nhưng muốn để thong thả đã rồi mới ra phán quyết. Chúng tôi chẳng thể làm được gì để thúc ông ta cả, mà có cố làm thế cũng lợi bất cập hại thôi.

Đã xác định được rằng chúng tôi đang bị theo dõi, dù chưa rõ mức độ, nhưng như thế là đủ để bàn luận căng thẳng rồi. Chúng tôi nhất trí là mọi hồ sơ và giao tiếp kỹ thuật số phải được nâng cấp và bảo vệ nghiêm ngặt. Việc đó sẽ tốn tầm 30.000 đô, một số tiền ngoài dự kiến đối với ngân sách eo hẹp. Còn kẻ xấu lại có nguồn tiền vô hạn để thuê những kẻ theo dõi giỏi nhất.

Tôi không nghĩ chúng sẽ quanh quẩn ở Savannah và giám sát hoạt động của chúng tôi. Làm thế chỉ gây chán nản và không đem lại thông tin hữu ích gì. Nhưng chúng tôi cũng thống nhất là phải cảnh giác hơn và đừng tuân thủ lịch trình thường lệ. Đáng ra chúng có thể dễ dàng bám theo tôi đến Nassau và dò ra tôi gặp gỡ Tyler Townsend. Với Bruce Gilmer ở Sun Valley cũng thế. Nhưng tôi gặp hai người họ trước khi đệ đơn, trước khi chính thức ghi tên mình vào vụ này.

Chúng tôi cũng đã biết thêm nhiều về Nash Cooley. Chúng tôi có thông tin về xe cộ, bất động sản và hai vụ ly hôn của anh ta. Theo những gì chúng tôi có, thì rõ ràng anh ta kiếm được nhiều tiền và thích tiêu xài. Ngôi nhà của anh ta ở Coral Gables được định giá 2,2 triệu đô. Nash Cooley có ít nhất là ba chiếc xe, đều là hàng Đức nhập khẩu. Công ty của anh ta đặt trụ sở ở một khu phát triển tại trung tâm Miami, có cả chi nhánh ở Grand Cayman và Mexico City. Theo một người bạn của Susan Ashley, vài luật sư chuyên về ma túy ở Nam Florida có nhận thù lao từ nước ngoài. Họ hiếm khi bị lộ, nhưng thỉnh thoảng FBI cũng bắt một vài người vì tội trốn thuế. Anh ấy còn cho biết Varick & Valencia đã nhúng chàm trong ngành bẩn thỉu này từ lâu, thậm chí còn cố vấn cho các thân chủ về cách rửa tiền sạch sẽ gọn gàng hơn. Hai cộng sự thâm niên của công ty này là những tay dày dạn đã giành rất nhiều chiến thắng ở tòa. Năm 1994, họ đã biện hộ cho Mickey Mercado về tội giết người và khiến bồi thẩm đoàn không thể thống nhất được phán quyết.

Tôi chẳng hiểu được Nash Cooley nghĩ gì khi lái xe sáu tiếng để đi xem phiên điều trần xét xử hậu tuyên án của chúng tôi. Nếu anh ta muốn quan sát tôi cho kỹ thì chỉ việc lên website là xong. Với Susan Ashley cũng thế. Mọi thỉnh nguyện đơn, kiến nghị, thông cáo, và phán quyết đều là văn bản công cộng, quá dễ tìm thấy trên mạng. Thế sao anh ta lại liều lĩnh để bị nhận diện? Cứ cho là, nguy cơ bị lộ quá thấp ở vùng hẻo lánh này của bang, nhưng dù gì anh ta cũng đã bị chúng tôi nhận ra. Tôi chỉ có thể nghĩ được rằng Cooley đến đó vì thân chủ ra lệnh như vậy.

Mickey Mercado là dân giang hồ, có lẽ đã làm cho băng ma túy này cả đời rồi. Nhưng đó là băng nào thì chúng tôi chưa rõ. Anh ta và hai kẻ khác từng bị cáo buộc tội giết một tay buôn ma túy trong một vụ mua bán đổ bể, nhưng FBI chẳng thể nào buộc tội được.

Và giờ anh ta đang bám đuôi tôi?

Tôi đã nói rõ với các đồng sự rằng ngoái nhìn lại sẽ không ích gì cho Quincy Miller đâu. Việc của chúng tôi là chứng minh Quincy vô tội, không cần phải xác định hung thủ là ai.

Nhưng tôi chưa kể hết mọi thứ. Hiếm khi thế lắm. Chuyện về Tyler và bầy cá sấu, tôi vẫn tuyệt đối giữ kín. Cái hình ảnh đó cứ ám mãi trong đầu tôi.

Hầu như mỗi lần bàn luận ý tưởng, chúng tôi đều nhắc đến Tyler. Một mặt, tôi thấy mình phải liên lạc lại, ít nhất là cảnh báo anh ấy chuyện có kẻ bắt đầu theo dõi chúng tôi. Mặt khác, tôi cũng nhận thức rằng chỉ cần liên lạc thôi là cũng có thể gây họa cho Tyler rồi. Với Bruce cũng thế, nhưng anh ta không biết nhiều bằng Tyler.

Và cuối cùng, chúng tôi quyết định rằng làm thế quá mạo hiểm, tuyệt đối không được. Tôi lên mạng, vào Dưới Mái hiên Patty mà tôi đã nộp thêm 20 đô-la phí thuê bao tháng, rồi gửi tin nhắn được tự động xóa sau năm phút.

Lại ở Nassau—quan trọng.

Qua năm phút, và chẳng thấy hồi đáp. Trong ba tiếng tiếp theo, tôi gửi thêm bốn tin nhắn y hệt như thế, và bên kia vẫn im bặt.

Khi trời đã tối, tôi rời văn phòng đi dạo qua vài khối nhà trong tiết trời đêm oi bức. Mấy ngày này, nắng đổ lửa kéo dài, lại ẩm ướt, khách du lịch thì chen chúc chật kín. Như thường lệ, cha Luther Hodges đang ngồi trước hiên, háo hức chạy ra đón.

“Chào cha,” tôi gọi lớn.

“Chào con trai.” Chúng tôi ôm nhau trên lối vào, thân mến xỉa xói nhau về vòng eo và mái tóc bạc xơ xác, rồi đi vào nhà. Nói chuyện vài câu, tôi nhận ra cha đang có ưu tư gì đó.

“Ngày mai, một người nữa sẽ bị hành hình ở Texas,” cha giải thích.

“Con rất tiếc.”

Cha Luther là người miệt mài vận động bãi bỏ các tục lệ lạc hậu, thông điệp của cha luôn đơn giản là: Ta đều đồng ý giết người là sai, vậy tại sao lại chấp nhận để nhà nước giết người? Khi có tin về một vụ hành hình nào đó sắp diễn ra, cha và các đồng bạn trong phong trào bãi bỏ hủ tục liền viết thư, gọi điện, đăng bình luận trên mạng, và thậm chí còn đến nhà tù để biểu tình. Cha dành nhiều giờ cầu nguyện và thương tiếc cho những kẻ sát nhân mà cha chưa hề gặp mặt.

Với những chuyện hiện giờ, chúng tôi chẳng có hứng ăn sang chảnh, nên tạt vào một tiệm sandwich. Cha trả tiền cho tôi luôn, như lâu nay vẫn vậy, và khi cả hai đã ngồi xuống bàn, cha liền hỏi, “Kể cha nghe về vụ Quincy đi.”

Từ khi bắt đầu hoạt động, Hội Vệ nhân đã xử lý 18 vụ, giải oàn thành công tám người trong số đó. Một thân chủ của chúng tôi đã bị hành hình. Sáu người khác thì đang chờ ngày đó. Ba người kia, chúng tôi đã bỏ cuộc sau khi xác định được họ thật sự có tội. Khi vướng phải sai lầm, chúng tôi liền bỏ ngang và rút đi.

Qua 18 vụ, chúng tôi đã rút kinh nghiệm được rằng, sớm hay muộn, vận may sẽ đến. Và lần này, vận may mang tên Len Duckworth, sống ở Sea Island, cách Savannah tầm một tiếng lái xe. Ông tự lái xe đến, vào văn phòng của chúng tôi, không thấy ai ở bàn tiếp tân bèn đi tìm và tự ló đầu vào văn phòng của Vicki chào hỏi. Vicki rất lịch sự, luôn là thế, nhưng bà cũng rất bận. Tiếp khách được vài phút, bà liền gọi cho tôi. “Có thể quan trọng đấy,” bà bảo. Khi tôi về, chúng tôi lên phòng họp trên lầu, ngồi nói chuyện quanh ấm cà phê mới pha. Vicki và Mazy ghi chép, còn tôi chỉ việc lắng nghe.

Duckworth tầm 70, vóc người gọn gàng, làn da rám nắng, biểu hiện của cuộc sống về hưu an nhàn sung túc với nhiều thời gian chơi golf và tennis. Ông và vợ đã chuyển đến Sea Island vài năm trước, và cố sống sao cho thật năng động ở tuổi này. Ông là dân Ohio, vợ là người Chicago, cả hai đều thích khí hậu ấm áp. Hồi năm 1973, ông đang là đặc vụ FBI thì Quốc hội thành lập Lực lượng Chống Ma túy (DEA), một ngành có vẻ hấp dẫn hơn công việc bàn giấy của ông nhiều. Thế nên, từ đó ông chuyển sang DEA và có 12 năm phụ trách đơn vị ở Bắc Florida.

Mấy tháng qua, chúng tôi đã cố lấy hồ sơ của DEA trong thập niên 1980 mà bất thành. Cũng như FBI và ATF, DEA rất nhạy cảm về chuyện bảo vệ hồ sơ, tài liệu. Vicky đã gửi đi một yêu cầu theo Luật Tự do Thông tin, nhưng chỉ nhận lại được một lá thư mà phần lớn các từ ngữ đều bị bôi đen để bảo mật.

Vì vậy, hôm nay đúng là may mắn trên trời rơi xuống. Duckworth mở lời, “Tôi biết rất nhiều về chuyện buôn ma túy thời đó. Có vài chuyện tôi nói được, vài chuyện thì không.”

Tôi nói, “Tôi hơi thắc mắc vì sao ông đến đây. Chúng tôi đã cố truy cập hồ sơ và tài liệu của DEA suốt bảy tháng qua, mà chẳng được gì.”

“Các anh chẳng kiếm được gì nhiều đâu, vì DEA luôn viện cớ là vụ này vụ kia đang trong quá trình điều tra gì đó. Dù cho vụ đó xưa như trái đất hay đã khép lại rồi, DEA cũng chẳng tiết lộ gì. Và họ sẵn sàng viện đến cả tòa án để bảo vệ thông tin. Chúng tôi vận hành như thế.”

“Vậy ông có thể kể được những gì?” tôi hỏi.

“Tôi có thể nói về vụ sát hại Keith Russo vì vụ đó đã khép lại hơn 20 năm rồi, và nó cũng chẳng phải chuyện của DEA. Tôi biết Keith, biết rõ là đằng khác vì chúng tôi đã nắm thóp anh ta. Anh ta làm chỉ điểm cho chúng tôi, và cũng vì vậy mà phải mất mạng.”

Vicki, Mazy và tôi trố mắt nhìn nhau. Người duy nhất trên đời sẵn sàng xác nhận Keith Russo là chỉ điểm giờ đang ngồi trong văn phòng bừa bộn của chúng tôi, thong thả nhấm nháp cà phê.

“Ai đã giết anh ấy?” Tôi ngập ngừng hỏi.

“Không biết, nhưng không phải Quincy Miller. Là sát thủ của băng ma túy.”

“Băng nào?”

Ông dừng lại, nhấp chút cà phê. “Anh đã hỏi tại sao tôi đến đây. Tôi có nghe về chuyện các anh cố giải oan cho Miller, và tôi hoan nghênh điều đó. Họ đã bắt nhầm người, vì họ muốn thế. Tôi biết nhiều chuyện ở thời điểm đó, và có thể kể cho các anh mà không sợ làm lộ các vấn đề tuyệt mật. Nhưng thực ra, trên hết, tôi chỉ muốn đi đây đó đổi không khí một chút. Vợ tôi đang mua sắm gần đây, và lát nữa chúng tôi sẽ đi ăn trưa một bữa ra trò.”

Tôi nói, “Chúng tôi sẵn sàng nghe, lúc nào cũng được, bao lâu cũng được.”

“Được, kể về bối cảnh chút đã. Giữa thập niên 1970, khi DEA được thành lập, cocaine đang tàn phá khắp cả nước, khối lượng vận chuyển phải đến hàng tấn, bằng tàu thủy, máy bay, xe tải, đủ thứ. Nhu cầu cocaine quá cao, lợi nhuận quá lớn, dân trồng và buôn thuốc luôn cháy hàng. Chúng lập nên các mạng lưới lớn khắp Trung và Nam Mỹ, chất tiền như núi ở các ngân hàng vùng Caribbean. Florida, với 1.300 km bờ biển và vài chục hải cảng, trở thành điểm chuyển hàng yêu thích của chúng. Miami biến thành địa bàn của bọn buôn ma túy. Nam Florida nằm trong tay một băng Colombia, giờ vẫn còn hoạt động. Tôi không liên quan đến khu vực đó. Phạm vi hoạt động của tôi là ở Bắc Orlando, và đến năm 1980, băng Saltillo của Mexico nắm hầu hết cocaine ở khu vực đó. Băng này vẫn hoạt động, nhưng đã bị sáp nhập rồi. Hầu hết đầu đảng của chúng đã bị xử trong cuộc chiến giành địa bàn. Mấy băng này cứ thịnh rồi suy, thương vong nhiều vô kể. Mức độ tàn bạo thì không thể nào tin nổi. Tôi chẳng nên kể ra làm gì.”

“Vâng, đừng kể,” Vicki nói.

Hình ảnh Tyler và bữa tiệc máu của cá sấu lại hiện lên trong đầu tôi. “Chúng tôi nắm kha khá thông tin về cảnh sát trưởng Pfitzner và chuyện ở Hạt Ruiz.”

Ông cười, lắc đầu, như thể vừa nghe ai đó nhắc về một ông bạn già. “Và chúng tôi chưa hề nắm thóp được gã. Theo chúng tôi biết, gã là cảnh sát trưởng duy nhất ở Bắc Florida thông đồng với băng ma túy. Chúng tôi đã điều tra về gã khi Russo bị bắn. Sau đó, mọi chuyện thay đổi hết. Một vài chỉ điểm quan trọng của chúng tôi bị khử.”

“Ông thu phục Russo thế nào?” tôi hỏi.

“Keith là một anh chàng thú vị. Rất tham vọng. Chán cuộc sống thành phố nhỏ và muốn kiếm thật nhiều tiền. Anh ta là luật sư giỏi, cực giỏi. Keith có vài thân chủ liên quan đến ma túy ở khu vực Tampa–St. Pete, anh ta khá có tiếng đấy. Một chỉ điểm cho biết anh ta lấy thù lao bằng tiền mặt, tiền tấn ấy, khai báo thuế một phần hoặc là kệ luôn, thậm chí còn chuyển tiền ra nước ngoài. Chúng tôi có giám sát tình hình khai thuế của anh ta vài năm, và thấy rõ là anh ta tiêu vượt xa số tiền kiếm được từ Phố Chính ở Seabrook. Thế nên chúng tôi đã tìm đến, dọa truy tố tội trốn thuế. Anh ta biết thừa mình có tội và không muốn mất sạch. Anh ta còn phạm tội rửa tiền cho một vài thân chủ, đa số là người của băng Saltillo. Phương pháp của chúng là dùng các công ty vỏ bọc ở nước ngoài để mua bất động sản Florida rồi làm sao đó cho giấy tờ êm đẹp cả. Mấy trò đó không khó lắm và anh ta rất biết cách thu xếp.”

“Vợ Russo có biết chuyện anh ấy làm chỉ điểm không?”

Duckworth lại cười, nhấp thêm một ngụm cà phê. Chuyện chiến đấu với thuốc phiện của ông kể cả hàng giờ vẫn chưa hết. “Điểm này mới thú vị. Keith là tên hám gái. Anh ta cẩn thận không ve vãn ai Seabrook, nhưng ở Tampa lại khác. Anh ta và Diana có một căn hộ ở đó, rõ ràng là để tiện cho công việc rồi, nhưng Keith lại dùng nó cho việc khác. Trước khi bắt anh ta làm chỉ điểm, chúng tôi đã xin được lệnh tòa và được phép theo dõi căn hộ, văn phòng, thậm chí nhà anh ta. Chúng tôi nghe mọi thứ, kể cả những cuộc Keith gọi cho tình nhân. Rồi chúng tôi phát giác một chuyện thật sốc. Có vẻ Diana cũng muốn ông ăn chả bà ăn nem. Tình nhân của cô ta là một thân chủ ngành ma túy, một tay dân chơi đẹp mã làm việc cho băng Saltillo ở Miami. Tên gã là Ramon Vasquez. Có vài lần khi Keith đang vùi đầu xử lý công việc ở Tampa thì Ramon lẻn đến Seabrook để hẹn hò Diana. Dù gì chừng đó là đủ để anh hình dung chuyện vợ chồng nhà họ rồi đấy. Nên với câu anh vừa hỏi, tôi thấy không thể biết chắc Keith có kể chuyện làm chỉ điểm cho vợ mình không. Và dĩ nhiên, chính chúng tôi đã cảnh báo anh ta đừng làm thế.”

“Còn Diana thì sao?” Vicki hỏi.

“Có vẻ băng đó đã biết Keith đang làm cho chúng tôi. Tôi nghi là một chỉ điểm khác, một gã chơi hai mang, đã bán thông tin cho chúng. Chỉ điểm là cái nghề chơi bẩn, và lòng trung thành là thứ không tồn tại. Tiền tấn và nỗi sợ bị thiêu sống khiến người ta trở mặt bất kỳ lúc nào. Chúng xử Keith, Diana thì dọn đi khỏi thành phố.”

“Còn Ramon thì sao?” giờ đến Mazy hỏi.

“Gã và Diana cặp kè ở Tampa một thời gian nữa, rồi chuyển về phía Nam. Hồi đó chúng tôi chưa nắm rõ, nhưng về sau chúng tôi đoán có vẻ gã đã bỏ dần nghề ma túy và cố tránh rắc rối. Theo tin cuối cùng tôi biết, họ vẫn bên nhau, ở đâu đó tại Caribbean.”

“Với cả đống tiền,” tôi nói.

“Phải, với cả đống tiền.”

“Cô ấy có liên quan đến vụ án mạng không?” Mazy hỏi.

“Cái đó chưa ai chứng minh được. Mọi người biết về chuyện bảo hiểm nhân thọ của Russo và cả tài khoản ngân hàng dùng chung của họ rồi đấy, nhưng chuyện đó cũng không có gì quá bất thường.”

Tôi hỏi tiếp, “Thế sao ông không vạch mặt Pfitzner và xử băng đó?”

“Sau án mạng, vụ của tôi cũng bị hủy luôn. Chúng tôi chỉ cần một hay hai tháng nữa là đủ căn cứ để đưa chúng ra trước pháp luật, thậm chí là khởi tố Pfitzner vài tội danh. Chúng tôi kiên nhẫn, quá kiên nhẫn thì đúng hơn, nhưng văn phòng tư pháp ở đó lại không chịu hợp tác. Họ bị quá tải, đủ thứ lý do. Chúng tôi chẳng cách nào bắt họ xúc tiến khởi tố. Anh biết cung cách làm việc của họ mà. Sau vụ án mạng, chỉ điểm của chúng tôi cũng lặn hết, và thế là vụ này tan tành. Băng đó đã ẩn mình một thời gian dài rồi. Pfitzner thì đã nghỉ hưu. Tôi bị chuyển đến Mobile, làm ở đó cho đến hết sự nghiệp.”

“Băng đó dùng ai để xử lý mấy chuyện giết chóc?” Mazy hỏi.

“Ồ, chúng có cả đống tay súng mà, và đám này thường không phải sát thủ tinh tế cho lắm. Chúng ra tay tàn bạo, thường chặt đầu người ta hơn là dùng súng đạn. Nã hai phát shotgun vào mặt vẫn còn quá lịch sự so với phong cách của lũ này. Chúng giết người theo kiểu dã man và tởm lợm vì chúng muốn phải như thế. Chúng còn chẳng sợ bị để lại dấu vết. Anh đâu bao giờ tìm được chúng, vì xong việc là chúng trốn về Mexico, thậm chí là Panama, trốn kỹ trong rừng sâu.”

Mazy hỏi tiếp, “Nhưng hiện trường vụ Russo lại quá sạch sẽ nhỉ? Chẳng thấy manh mối nào.”

“Phải, với Pfitzner là kẻ chỉ đạo vụ điều tra.”

Tôi nói ngay, “Nhưng tôi không hiểu tại sao ông không tóm Pfitzner. Ông nói là biết ông ta bảo kê bến cảng, trữ ma túy cả kho, bảo vệ dân buôn ma túy. Ông còn có nhiều chỉ điểm, bao gồm cả Keith. Sao không tóm ông ta đi?”

Duckworth hít một hơi thật dài, đan hai tay để sau đầu. Ông ngả đầu nhìn lên trần, mỉm cười, “Có lẽ đây là chuyện đáng thất vọng nhất trong sự nghiệp của tôi. Chúng tôi rất muốn tóm ông ta. Một đồng nghiệp trong lực lượng bảo vệ pháp luật lại thông đồng với những kẻ đáng kinh tởm nhất. Chúng tuồn cả đống cocaine vào Atlanta, Birmingham, Memphis, Nashville và khắp vùng Đông Nam. Và chúng tôi đã có thể tóm ông ta. Chúng tôi đã len lỏi vào tổ chức đó. Đã mở vụ án. Đã có chứng cứ. Nhưng vấn đề là công tố viên ở Jacksonville. Chúng tôi không thể thúc hắn tiến đủ nhanh và đưa vụ này ra trước đại bồi thẩm đoàn. Hắn cứ khăng khăng bảo là đang xúc tiến nhưng thật ra hắn chẳng biết mình đang làm gì. Rồi Russo bị xử. Tôi vẫn cay về tay công tố viên đó. Sau này, nghe tin hắn tranh cử vào Nghị viện, tôi liền bỏ phiếu chống lại. Theo tôi biết, về sau, hắn phải vác bộ mặt xun xoe chạy quanh kiếm thân chủ trong vô vọng.”

Mazy hỏi, “Ông nói băng này vẫn hoạt động?”

“Hầu như là vậy, ít ra là vào thời điểm tôi về hưu. Năm năm qua, tôi không theo dõi tình hình nữa.”

Mazy hỏi tiếp, “Được rồi, vậy ta nói về những kẻ ra lệnh thủ tiêu Russo nhé. Giờ chúng ở đâu?”

“Tôi chẳng biết. Tôi chắc chắn một số đã chết, một số ngồi tù, một số thì nghỉ hưu trong biệt thự xa hoa đâu đó khắp thế giới. Và một số vẫn còn hoạt động.”

“Chúng có theo dõi chúng tôi không?” Vicki hỏi.

Duckworth cúi người tới, nhấp thêm một ngụm. Ông suy nghĩ một hồi lâu, vì ông hiểu được những quan ngại của chúng tôi. “Rõ ràng tôi chỉ có thể ức đoán thôi. Nhưng mà đúng, chúng đang theo dõi. Chúng đâu muốn Quincy Miller được giải oan, ít ra là thế. Tôi có chuyện này muốn hỏi anh,” ông vừa nói vừa quay sang nhìn tôi. “Nếu thân chủ anh được tự do, vụ án này có bị mở lại không?”

“Có lẽ là không. Phân nửa số vụ, chúng tôi tìm được thủ phạm thật sự, nửa còn lại thì không. Và vụ này có vẻ lại càng không. Thời điểm quá xa. Chứng cứ đã mất. Hung thủ thật sự, như ông đã nói, giờ đang sống ở đâu đó rất xa rồi.”

“Hoặc đã chết rồi,” Duckworth thêm vào. “Đám hành quyết của mấy băng đảng không được thọ cho lắm.”

“Vậy tại sao chúng theo dõi chúng tôi?” Vicki hỏi.

“Sao lại không? Hội của bà quá dễ để theo dõi. Hồ sơ tòa thì công khai. Nắm tình hình một chút cũng chẳng hại gì.”

Tôi hỏi luôn, “Ông từng nghe tên một luật sư chuyên làm cho dân ma túy Miami, tên là Nash Cooley chưa?”

“Có lẽ là chưa. Anh ta có làm trong hãng luật nào không?”

“Varick & Valencia.”

“Ồ, hẳn rồi. Đám đó hoạt động cũng khá lâu. Khá có tiếng trong ngành. Sao anh lại hỏi về họ?”

“Tuần trước, Nash Cooley có đến phiên điều trần của chúng tôi.”

“Vậy là anh biết anh ta?”

“Không, nhưng chúng tôi xác minh được nhân thân. Đi cùng là một gã tên Mickey Mercado, cũng là thân chủ của anh ta.”

Với bản năng cảnh sát, rõ là ông muốn hỏi chúng tôi làm cách nào mà xác minh nhân thân được hay vậy, nhưng ông đã kìm được và cho qua. Ông mỉm cười, “Nếu là anh, tôi sẽ cẩn trọng. Cứ cho là chúng đang theo dõi thì hơn.”