← Quay lại trang sách

Chương 31

Phòng chờ của khu chăm sóc đặc biệt có hai ghế sofa, cả hai đều được thiết kế để cho một người lớn có thể nằm ngủ được. Ghế phía bên kia là của một bà mẹ đang trông cậu con trai tuổi thiếu niên bị thương nặng trong tai nạn mô-tô. Tôi đã cầu nguyện cùng cô ấy hai lần. Chiếc ghế còn lại cùng một cái gối cứng giúp tôi có giấc chập chờn đến tầm 3:00 sáng, lúc tôi bừng tỉnh và chợt ngộ ra một điều quá rõ ràng. Ngồi trong căn phòng tối, tôi tự nhủ: “Trời. Mình ngốc quá. Sao giờ mới nghĩ ra chứ?”

Nếu vụ phục kích Quincy là theo lệnh một kẻ nào đó ừ bên ngoài, thế thì giờ anh ấy đang gặp nguy hiểm hơn cả lúc trong tù. Bất kỳ ai cũng có thể vào bệnh viện, đi thang máy lên tầng hai, nhẹ nhàng qua mặt các y tá ở bàn tiếp tân bằng một câu chuyện lọt tai, rồi vào được phòng của Quincy ngay lập tức.

Tôi trấn tĩnh lại, và thừa nhận mình đang hoang tưởng mà thôi. Làm gì có sát thủ chứ, vì chúng tin rằng chúng đã xử được Quincy rồi. Nghĩ thế là hợp lý.

Nhưng tôi không tài nào chợp mắt tiếp. Tầm 5:30, một bác sĩ và y tá bước vào, nói gì đó với bà mẹ. Con trai cô đã qua đời cách đây 20 phút. Vì là người mục vụ ở gần nhất, nên tôi phải làm việc của mình. Bác sĩ và y tá đi ra, để tôi cầm tay an ủi cô và gọi điện cho người thân.

Quincy vẫn đang chống chịu. Đến sáng, tôi gặp một bác sĩ khác. Tình hình của Quincy vẫn không có gì thay đổi, hy vọng sống vẫn quá mỏng manh. Tôi giải thích với bác sĩ rằng có thể thân chủ tôi đang gặp nguy hiểm. Đây không phải một vụ đánh nhau trong tù bình thường, anh đã bị phục kích bởi những kẻ rõ ràng muốn anh phải chết, và bệnh viện cần biết chuyện đó. Tôi nhờ bác sĩ báo chuyện này cho ban điều hành và những người phụ trách an ninh. Có vẻ anh ấy hiểu tình hình, nhưng không hứa hẹn gì.

Đến 7:00, tôi gọi Susan Ashley ở Dự án Người Vô tội Trung Florida, kể cho cô về Quincy. Chúng tôi bàn bạc nửa tiếng và nhất trí rằng phải báo cho FBI, và Susan Ashley biết cần gọi cho ai. Chúng tôi cũng bàn kế sách để đệ đơn thẳng lên tòa liên bang, kiện bang Florida và Sở Cải huấn của họ. Chúng tôi muốn có lệnh khẩn yêu cầu giám đốc nhà tù Garvin điều tra vụ tấn công. Rồi tôi gọi cho Mazy, bàn tiếp những chuyện này. Như thường lệ, cô cẩn trọng nhưng không bao giờ ngại chuyện đệ đơn lên tòa liên bang. Một tiếng sau, Mazy, Susan Ashley và tôi họp trực tuyến, rồi thống nhất cứ tạm hoãn trong vài tiếng sắp tới. Nếu Quincy không qua khỏi, mọi chiến lược đều phải thay đổi.

Tôi đang ở hành lang nghe điện thoại thì một bác sĩ thấy tôi và tiến lại. Tôi kết thúc cuộc gọi và hỏi anh ấy xem có chuyện gì.

Bác sĩ nói, giọng nghiêm trọng, “Điện não đồ cho thấy suy giảm đều trong hoạt động não. Nhịp tim của anh ấy đang giảm, còn 20 nhịp một phút. Giờ đó sắp đến rồi, và chúng tôi cần bàn chuyện này với người thân của bệnh nhân.”

_“Chuyện này_ là chuyện rút ống thở?”

“Thuật ngữ y khoa không phải thế, nhưng đúng rồi đấy. Và anh đã nói là anh ấy không có thân nhân.”

“Anh ấy có một người em trai đang cố đến đây sớm nhất có thể. Chuyện này phải do người em quyết định. Tôi nghĩ thế.”

“Anh Miller là tù nhân của bang, phải không?”

“Anh ấy là phạm nhân ở nhà tù của bang, hơn 20 năm rồi. Làm ơn đừng bảo tôi rằng giám đốc nhà tù được quyền quyết định đấy.”

“Khi vắng mặt người thân, thì đúng là thế.”

“Chết tiệt! Nếu nhà tù được quyền rút ống thở, thì chẳng có phạm nhân nào an toàn cả. Cứ chờ em trai anh ấy đến, được không? Có lẽ đến trưa thôi.”

“Được rồi. Và anh nên thu xếp các nghi thức lâm tử là vừa.”

“Tôi Ở Giáo hội Giám chế, không phải Công giáo. Chúng tôi không làm nghi thức lâm tử.”

“Thế thì cứ làm việc gì anh cần làm trước giờ tử vong đi.”

“Cảm ơn bác sĩ.”

Khi bác sĩ đi rồi, tôi thấy hai quản giáo hôm qua bước ra khỏi thang máy và chào hỏi họ như những người bạn cũ. Họ trở lại để thêm một ngày chỉ làm mỗi một việc là ngồi không. Hôm qua tôi nghĩ họ hoàn toàn vô dụng, nhưng giờ tôi lại hết sức vui mừng khi thấy các quản giáo. Càng nhiều nhân viên bảo vệ luật pháp ở đây càng tốt.

Tôi đề nghị mua bữa sáng cho họ ở căng-tin dưới lầu, không nghĩ cái bụng bự của họ lại từ chối đồ ăn bao giờ. Có bánh waffle và xúc xích cho vào miệng, họ bắt đầu cười nói kể chuyện của mình. Đầu giờ sáng nay, giám đốc nhà tù đã gọi điện sạc họ một trận. Anh ta giận vì họ để tù nhân lại một mình khi chưa được phép. Giờ họ phải chịu thử thách 30 ngày, và dính phốt trong hồ sơ.

Họ chẳng nghe tin đồn gì về vụ tấn công này, và bao lâu còn ngồi không trong bệnh viện này, họ càng khó mà biết chuyện. Tuy nhiên, nơi Quincy bị phục kích nổi tiếng là một trong vài khu vực hiếm hoi trong nhà tù không có máy quay an ninh. Ở đó từng xảy ra vài vụ tấn công. Viên quản giáo da đen, Mosby, nói mình đã quen biết Quincy nhiều năm trước khi bị thuyên chuyển sang bộ phận khác. Còn quản giáo da trắng, Crabtree, chẳng biết Quincy là ai, nhưng ở nhà tù Garvin này dù gì cũng có đến gần 2.000 tù nhân.

Dù họ biết ít, nhưng có vẻ cũng khoái trá vì mình có liên quan gì đó đến sự kiện đáng chú ý này. Tôi tâm sự với họ rằng tôi tin vụ tấn công là do kẻ chủ mưu bên ngoài ra lệnh và giờ Quincy đang là mục tiêu dễ hạ, và phải bảo vệ cho anh ấy.

Khi chúng tôi cùng quay lại khu chăm sóc đặc biệt, đã có hai bảo vệ của bệnh viện đi lại dọc hành lang, cau mày quan sát tất cả mọi người như thể Tổng thống đang nằm trong phòng. Vậy là có bốn thanh niên có vũ trang túc trực, và dù nhìn thân hình bệ vệ của họ chắc không ai đủ tầm lực sĩ, nhưng có còn hơn không. Tôi trao đổi với một bác sĩ dăm ba câu, nghe kết luận tình hình bệnh nhân vẫn như cũ, rồi rời bệnh viện trước khi có ai tiến lại hỏi xem có nên tắt máy thở của Quincy không.

Tìm được một nhà nghỉ rẻ tiền, tôi tắm rửa, đánh răng, thay áo quần, dù không thay được cả bộ, rồi tức tốc đi về nhà tù Garvin. Susan Ashley đã cố thuyết phục thư ký giám đốc nhưng vẫn chưa được gì. Kế hoạch của tôi là xông vào văn phòng anh ta yêu cầu giải trình, nhưng nó đã bị chặn đứng ngay phòng tiếp tân khi quản giáo cự tuyệt không cho tôi vào. Tôi đứng ở đó một tiếng, đe dọa bất kỳ ai chịu nghe, nhưng vẫn vô ích. Nhà tù được canh gác kỹ lưỡng là có lý do cả, dù vài lý do chẳng hay ho gì.

Quay lại bệnh viện, tôi chuyện trò với một cô y tá mà tôi thấy nhiều thiện cảm, và cô cho biết sinh hiệu của Quincy có cải thiện dù rất nhỏ. Người em trai Marvis không thể xin nghỉ phép ở Miami. Còn người ở nhà tù thì chẳng ai chịu nghe máy hay gọi lại gì cho tôi.

Đến bữa trưa, tôi chơi trò tung đồng xu, và cậu quản giáo Mosby là người thắng cuộc. Crabtree muốn ăn bánh mì lúa mạch kẹp thịt nguội, và chấp nhận ở lại canh gác cho Quincy. Tôi và Mosby xuống căng-tin, gom cả đống lasagna thừa và mấy thứ rau củ quả đóng hộp. Người quá đông, chúng tôi chật vật mới len vào được bàn trống cuối cùng, và cái bụng phệ của cậu ấy không ưa chỗ này lắm, vì cạnh bàn đang cứa vào nó. Mosby mới tầm 30 tuổi mà đã thừa cân nghiêm trọng, trong đầu tôi cứ chực hỏi cậu ấy muốn phì ra đến thế nào sau mười năm nữa? Hay là 20 năm? Mosby có nhận ra với tiến độ thế này thì đến năm 40 chắc chắn sẽ bị tiểu đường không nhỉ? Nhưng mấy câu hỏi đó, tôi luôn biết để dành trong bụng mà thôi.

Mosby thấy thích thú với công việc của Hội và cứ nhìn cổ áo của tôi mãi. Thế nên, tôi mới kể vài mẩu chuyện được thêm mắm dặm muối về những người chúng tôi đã cứu được khỏi nhà tù. Tôi kể về Quincy và nỗ lực chứng minh anh ấy vô tội. Mosby có vẻ tin tôi, dù sự bàng quan vẫn lộ rõ trên mặt cậu. Mosby chỉ là dân quê làm việc với mức lương 12 đô-la một giờ vì thị trường việc làm ảm đạm. Cậu ấy ghét chuyện này, ghét phải làm việc sau hàng rào thép gai, ghét những hiểm nguy từ đám tội phạm luôn ủ mưu vượt ngục, ghét bộ máy quan liêu và vô số luật lệ bất tận, ghét bạo lực, ghét cả giám đốc nhà tù, ghét áp lực và căng thẳng triền miên. Tất cả những chuyện phải chịu đựng này chỉ để đổi lấy 12 đô-la một giờ. Vợ Mosby quét dọn văn phòng, còn mẹ thì ở nhà chăm ba đứa cháu.

Vicki vừa tìm được ba bài báo nói về nạn quản giáo tham nhũng ở Garvin. Hai năm trước, tám người đã bị sa thải vì tuồn hàng vào để bán, ma túy, vodka, phim heo và món yêu thích nhất trong tù—điện thoại. Một phạm nhân bị phát hiện đang giữ bốn điện thoại để bán. Anh ta thú nhận là anh họ mình trộm chúng ngoài kia và hối lộ quản giáo để tuồn vào. Một quản giáo bị sa thải được trích lời nói rằng, “Chúng tôi đâu thể sống bằng mức lương 12 đô-la một giờ, nên phải làm gì đó thôi.”

Trong lúc xử lý món tráng miệng, bánh chocolate cho Mosby và cà phê cho tôi, tôi dò hỏi, “Mosby này, tôi đã vào trong hàng trăm nhà tù rồi nên cũng biết được đôi điều. Tôi biết là thế nào cũng có người chứng kiến Quincy bị tấn công. Phải chứ?”

Mosby gật đầu, “Khả năng cao là thế.”

“Với những thứ nghiêm trọng, như cưỡng hiếp và đâm chém, thì phải tìm đúng quản giáo có thể đút lót để làm ngơ, phải không?”

Cậu ấy mỉm cười và gật đầu. Tôi thúc tiếp luôn, “Năm ngoái, có hai vụ giết người ở Garvin. Có vụ nào trong ca trực của cậu không?”

“Không.”

“Họ có bắt được thủ phạm không?”

“Vụ đầu tiên thì có. Vụ thứ hai là bị cắt cổ khi đang ngủ. Đến giờ vẫn chưa phá được, và có lẽ là không bao giờ.”

“Mosby này, với tôi chuyện tìm ra kẻ nào phục kích Quincy rất quan trọng. Cậu và tôi đều biết thừa là thế nào cũng có quản giáo liên quan. Tôi cá chắc người đó đã làm ngơ lúc xảy ra vụ tấn công. Phải chứ?”

“Có lẽ thế.” Mosby cắn một miếng bánh, mắt nhìn mông lung. Nuốt xong, cậu mới nói, “Trong tù, mọi thứ đều để mua bán, Post là. Anh biết thế mà.”

“Tôi muốn biết tên thôi, Mosby, tên của những kẻ đã đánh Quincy. Cậu ra giá đi?”

Cậu ấy cúi người tới và cố chỉnh lại cái bụng cho khỏi cấn rìa bàn. “Tôi không biết, tôi thề. Nên tôi phải đi hỏi, và phải trả tiền cho người kia. Anh ta có lẽ sẽ phải trả tiếp cho người khác mới có được thông tin anh muốn. Ý tôi là, tôi chỉ muốn có vài đồng riêng phần tôi thôi.”

“Được, nhưng để tôi nhắc lại nhé, chúng tôi là tổ chức phi lợi nhuận, không có đủ tiền đâu.”

“Anh gom được năm ngàn đô-la không?”

Tôi cau mày như thể cậu ấy đòi cả triệu đô, nhưng năm ngàn là con số hợp lý rồi. Vài người trong đường dây thông tin là những tù nhân chỉ cần những thứ đơn giản như đồ ăn ngon một chút, ma túy, tivi mới, vài bao cao su, giấy vệ sinh mềm hơn. Vài người là quản giáo cần vài ngàn đô-la để sửa xe.

“Có lẽ được,” tôi trả lời. “Nhưng phải nhanh.”

“Mà anh định làm gì với mấy cái tên này?” Mosby vừa hỏi vừa nhét miếng bánh cuối cùng vào miệng.

“Cậu quan tâm làm gì? Có lẽ chỉ là vài tên tù chung thân bất cần đời.”

“Có lẽ thế,” cậu ta nhồm nhoàm đáp. “Vậy ta chốt chứ?”

“Cậu tìm hiểu đi, còn tôi lo tiền nong.”

“Chốt.”

“Và phải kín đáo đấy, Mosby. Tôi không muốn Crabtree nhúng mũi vào. Hơn nữa, có thể cậu ấy muốn chia chác thì sao, phải chứ?”

“Phải. Tôi không chắc có tin được cậu ta không.”

“Chắc tôi cũng thế.”

Rồi chúng tôi quay về đưa bánh cho Crabtree. Cậu này đang ngồi cùng một cảnh sát thành phố Orlando, một anh chàng mau miệng, cho chúng tôi biết là đã được lệnh túc trực ở đây trong vài ngày. Vậy là quân số đủ đông rồi, và tôi bắt đầu an lòng hơn về an nguy của Quincy.