Chương 32
Đã 28 tiếng sau vụ tấn công, và sau năm hay sáu lần về không, anh không nhận thức được, nhưng hoạt động não đang tăng, và tim cũng khỏe dần lên. Tuy nhiên, chuyện này vẫn không khiến các bác sĩ lạc quan hơn chút nào.
Tôi phát ốm vì bệnh viện và muốn thoát đi cho rồi, nhưng làm sao ở xa thân chủ này được. Thế là tôi nằm chờ trên sofa, lướt điện thoại, bất kỳ thứ gì để giết thời gian. Mazy và tôi đã quyết định chờ thêm một ngày nữa rồi mới liên lạc FBI. Chuyện kháng cáo lên liên bang cũng tạm hoãn, dù chúng tôi đang tính lại vụ đó. Giám đốc lẫn nhân viên nhà tù vẫn chưa liên lạc gì với chúng tôi.
Đến 5:00 chiều, Mosby và Crabtree được lệnh ra về, và thế chỗ cho họ là một nhân viên tóc muối tiêu tên Holloway có vẻ không thân thiện gì lắm. Anh ta có vẻ đang cáu vì bị phân công gác hành lang và không thèm nói gì nhiều. Sao cũng được, ít ra cũng có thêm một người canh gác. Và tôi cũng chán nói chuyện với người lạ lắm rồi.
Đầu giờ tối, Marvis Miller cũng vừa đến nơi, tôi dẫn anh đi thăm anh trai mình. Thấy Marvis xúc động quá, tôi cũng lùi lại để anh được yên tĩnh. Marvis đứng ở cuối giường, chẳng dám chạm vào thứ gì, mắt chăm chăm nhìn vào khuôn mặt lọt thỏm sau mớ băng gạc của Quincy. Một y tá đến hỏi chuyện Marvis, còn tôi thì rút lui vào phòng chờ tiếp tục giết thời gian.
Lát sau, tôi đi ăn tối cùng Marvis, bữa thứ ba trong ngày tại căng-tin này. Marvis thua Quincy sáu tuổi và luôn thần tượng anh trai. Họ còn hai người chị em, nhưng chẳng nói chuyện với nhau lâu rồi. Gia đình họ chia rẽ từ sau khi Quincy bị kết tội, hai người chị em cho rằng Quincy có tội, vì bồi thẩm đoàn đã phán quyết như thế, nên họ đoạn tuyệt với anh. Chuyện này làm Marvis buồn lắm, anh luôn tin rằng anh mình bị gài tội và lúc này gia đình phải ủng hộ Quincy hơn bao giờ hết.
Sau khi cố nhét chỗ đồ ăn vào bụng, chúng tôi tìm chỗ ngồi uống cà phê thay vì chui lại vào không gian ảm đạm của phòng chờ thân nhân. Tôi giải thích với Marvis về những lo ngại cho an nguy của Quincy. Tôi cũng nói ra giả thuyết của mình là vụ tấn công này do những kẻ có liên quan đến vụ án của anh chỉ đạo vì e ngại cuộc điều tra của chúng tôi. Tôi chân thành xin lỗi vì chuyện thành ra như thế, nhưng Marvis khăng khăng đó đâu phải lỗi của tôi. Anh vô cùng biết ơn nỗ lực của chúng tôi, đến nỗi lặp đi lặp lại câu này mấy lần. Anh luôn mơ đến một ngày người anh trai vô tội mình sẽ được hiên ngang bước ra khỏi nhà tù. Marvis giống Quincy vô cùng, dễ tính, đáng mến, đáng tin, một người tử tế cố sống giữa cảnh đời khắc nghiệt. Anh có chút cay đắng với hệ thống đã đẩy anh trai mình vào khốn khổ, nhưng cũng hy vọng đến một ngày nào đó chuyện sai trái sẽ được khắc phục.
Nói chuyện một hồi, chúng tôi lên lại khu chăm sóc đặc biệt. Nhưng hết chịu nổi cái sofa, tôi ra ngoài tìm nhà nghỉ, tắm táp rồi ngủ.
Mosby gặp Frankie Tatum ở một quán rượu rẻ tiền vùng ngoại ô Deltona, cách xa khu vực quen của Mosby. Cậu ấy bảo hồi trước hay lui tới chỗ này nhưng giờ chắc chẳng ai nhận ra nữa đâu. Như thường lệ, Frankie vào quán trước giờ hẹn. Đã gần nửa đêm, lại là thứ Năm, nên nơi này khá vắng vẻ êm đềm. Sau vài ly bia, bầu không khí bắt đầu thoải mái.
Cái tài của Frankie là thế, chỉ cần vài ly và bầu khí thân thiện một chút là anh lấy được lòng tin ngay.
“Tôi cần sáu ngàn, tiền mặt,” Mosby ra điều kiện. Họ ngồi ở bàn góc quán, gần một bàn bi-a. Hai người đang ngồi ở quầy bar không thể nào nghe được họ nói gì.
“Được,” Frankie trả lời ngắn gọn. “Đổi lại, chúng tôi được gì?”
“Tôi có ba cái tên. Hai người đầu là tù nhân, chịu án lâu năm vì tội giết người, khó lòng được giảm án. Họ đã tấn công Quincy. Người thứ ba là một quản giáo đứng gần đó nhưng lại nói chẳng thấy gì. Có vẻ anh ta canh chừng cho họ. Không có video an ninh gì cả. Họ đã chọn vị trí không bị ghi hình. Tôi chẳng hiểu sao Quincy lại đến chỗ đó làm gì, vì hầu như phạm nhân nào cũng biết mà. Hai tháng trước, một gã cũng bị hiếp ở đó. Có lẽ Quincy cho là mình cứng quá chẳng ai dám nhờn nên khinh suất. Muốn biết câu trả lời thì anh phải hỏi anh ấy, nếu còn cơ hội.”
“Cậu biết gì thêm về hai tên kia không?”
“Cả hai đều da trắng, khá có tiếng, lại ở trong băng hổ báo tên là Phó tế Aryan. Gã đầu tiên ngày nào tôi cũng gặp, vì tôi gác ở khu gã ở. Gã là dân Hạt Dade, chuyên gây rối. Gã thứ hai thì tôi không quen. Ở Garvin có đến 2.000 tù nhân đấy, ơn trời là tôi không quen hết cả đám bọn họ.”
“Đây có thể là chuyện đấu đá băng đảng không?”
“Chắc là không. Các băng luôn đấu đá nhau, nhưng theo tôi biết, Quincy luôn tránh xa chuyện này.”
Frankie uống thêm ngụm bia rồi lấy trong túi ra một bì thư trắng. Anh để nó lên bàn, “Đây là 5.000.”
“Tôi nói là sáu mà,” Mosby nói, không đưa tay lấy tiền.
Frankie lại đưa tay vào một túi khác, lấy ra một cuộn tiền, nhưng cẩn thận để tay dưới bàn. Anh đếm và lấy ra mười tờ 100 đô-la. “Thêm đây là sáu.”
Mosby một tay đưa cho Frankie mảnh giấy, tay kia lấy tiền và bì thư. Frankie mở giấy ra, xem ba cái tên trong đó.
Mosby nói thêm, “Còn một chuyện nữa. Quincy không bị hạ chóng vánh. Anh ấy đã trả đòn dữ dội. Gã đầu tiên bị dập mũi. Chiều nay, gã đã đến bệnh xá, khai là do đánh nhau. Chuyện đó quá bình thường, nên chẳng ai hỏi gì. Cái mặt nát đó là xác minh cho lời tôi rồi.”
“Cảm ơn cậu. Còn gì nữa không?”
“À, tôi không quay lại gác ở bệnh viện nữa. Họ luân phiên đổi quản giáo, chúng tôi luôn thiếu người mà. Bảo anh Post là tôi cảm ơn về vụ này nhé.”
“Tôi sẽ chuyển lời. Và chúng tôi cũng cảm ơn cậu.”
Mazy tìm hiểu về gã đầu tiên, Vicki lo gã thứ hai, còn tôi được giao gã quản giáo. Mười lăm phút sau khi Frankie tạm biệt Mosby, cả ba chúng tôi đều cắm đầu lùng sục trên mạng.
Robert Earl Lane bị kết tội giết người cấp độ một vì sát hại bạn gái ở Hạt Dade cách đây 17 năm. Trước đó, gã đã ngồi tù ba năm vì tội hành hung cảnh sát. Jon Drummik thì can tội giết bà mình để lấy 60 đô-la đi mua ma túy. Gã đã nhận tội ở Sarasota vào năm 1998, nên không cần ra tòa. Cả hai đều ở Cơ sở Cải huấn Garvin gần mười năm rồi, và vì hồ sơ tù nhân là thứ bảo mật nên chúng tôi không nắm được gì nhiều sau đó. Mazy có thể hack gần như bất kỳ thứ gì, nhưng chúng tôi vẫn cố tránh phạm luật. Các băng đảng trong tù như Phó tế Aryan hiếm khi được báo cáo cụ thể, nên chẳng cách nào xác minh thành viên của chúng.
Quản giáo Adam Stone, da trắng, 34 tuổi, trú tại một thị trấn nhỏ cách nhà tù nửa tiếng đi xe. 2:15 sáng, Frankie đã tìm được nhà của Stone, ghi lại biển số hai chiếc xe của gã, một chiếc bốn chỗ và một chiếc bán tải. Đến 3:00, toàn Hội Vệ nhân họp trực tuyến, trao đổi mọi thông tin tìm được. Chúng tôi lên kế hoạch điều tra thêm về thân thế của Lane và Drummik, cũng như về hoạt động của băng Phó tế Aryan ở Florida.
Giả thuyết của chúng tôi là vụ phục kích này do kẻ khác thuê chúng thực hiện. Lane và Drummik chẳng liên quan gì đến vụ của Russo cả. Chúng chỉ là hai kẻ rục tù muốn kiếm ít bạc lẻ, dù cho việc tấn công một người da đen có thể cũng đem lại cho chúng chút hứng thú.
Lúc 5:00 sáng tôi quay lại bệnh viện, phòng chờ thân nhân vắng hoe. Tôi ghé qua bàn tiếp tân thấy có một y tá, vậy là ít ra còn có người thức. Tôi hỏi thăm Marvis Miller, cô y tá chỉ về phía phòng Quincy. Marvis đang ngủ trên giường xếp, bảo vệ anh mình. Chẳng thấy bóng dáng quản giáo hay bảo vệ nào cả. Y tá giải thích rằng vào tầm nửa đêm, Marvis bực mình vì không có ai canh gác nên yêu cầu cho anh cái giường xếp để nằm cạnh anh mình. Quản lý ca đêm đồng ý, thế là họ đưa giường xếp vào phòng bệnh của Quincy. Tôi cảm ơn cô y tá rồi hỏi, “Tình hình bệnh nhân thế nào rồi?”
Cô nhún vai, “Còn cầm cự được.”
Một tiếng sau, Marvis bật dậy, dụi mắt và mừng rỡ khi thấy tôi. Chúng tôi kiếm hai cốc cà phê rồi ngồi trên ghế xếp ngay hành lang, xem các y tá và bác sĩ bắt đầu vào ca sáng. Một nhóm y tá bác sĩ gọi chúng tôi vào phòng Quincy, báo rằng sinh hiệu của anh ấy tiếp tục cải thiện, dù rất nhỏ. Họ dự định duy trì hôn mê chủ động thêm vài ngày nữa.
Marvis sợ đi lâu quá thì sẽ bị đuổi việc nên phải quay về. Chúng tôi ôm tạm biệt ở thang máy, và tôi hứa sẽ báo ngay cho anh nếu có thay đổi gì. Anh hứa sẽ quay lại sớm nhất thế, nhưng quãng đường năm tiếng đi xe cũng không dễ dàng gì.
Lát sau, hai cảnh sát vũ trang của Orlando đến và tôi trao đổi đôi chút với họ. Họ định ở lại đây tầm một tiếng thôi, chỉ đến khi các quản giáo vào tiếp quản.
Lúc 7:30, tôi nhận được email của nhà tù. Giám đốc đã chịu bỏ ra vài phút tiếp tôi.
Tôi đến Garvin sớm 45 phút so với giờ hẹn là 10:00. Tôi cố giải thích với nhân viên tiếp tân là đã có hẹn với giám đốc, nhưng vẫn cứ phải qua đủ quy trình như mọi luật sư đến gặp thân chủ. Đặt chân vào nhà tù rồi thì cái gì cũng phiền. Có cả đống quy định, thậm chí họ còn bịa thêm ra cho người ta phải phí thời gian. Xong xuôi, một quản giáo chở tôi bằng golf cart đến tòa nhà điều hành.
Giám đốc nhà tù là một người da đen, to con và rất bảnh. Hai mươi năm trước, anh là cầu thủ bóng bầu dục ở Florida State, đã vào NFL, nhưng chỉ chơi được mười trận thì phải giải nghệ vì vỡ xương bánh chè. Văn phòng của anh treo đầy ảnh anh mặc đồng phục chơi bóng, những quả bóng bầu dục có chữ ký, thậm chí đèn bàn cũng có hình mũ bảo hộ. Có vẻ anh từng chơi cho Green Bay Packers. Anh ngồi sau cái bàn lớn chất đầy hồ sơ giấy tờ, đúng kiểu người quan trọng. Bên trái anh là luật sư của nhà tù, một tay ra vẻ quan liêu da trắng đang cầm tập giấy và nhìn tôi chằm chằm như thể sắp lôi tôi ra tòa vì lý do gì đó hoặc cũng chẳng cần lý do.
“Tôi có 15 phút thôi,” giám đốc mở lời. Tên anh là Odell Herman. Trên tường treo ít nhất là ba áo đấu đóng khung khác nhau nhưng đều in tên HERMAN, tạo cảm giác như thể anh ta đã ghi tên lên Bức tường Danh vọng NFL rồi.
“Cảm ơn anh vì đã dành thời gian. Tôi muốn biết chuyện gì đã xảy ra với thân chủ của tôi, Quincy Miller.”
“Chúng tôi đang điều tra và chưa thể nói được gì. Phải chứ, anh Burch?”
Anh chàng Burch gật đầu xác nhận, đúng kiểu luật sư.
“Anh biết ai tấn công anh ấy không?” tôi hỏi.
“Chúng tôi có tình nghi, nhưng như tôi đã nói, hiện giờ chưa thể nói gì được.”
“Được, thì cứ vậy. Không cần nói rõ tên tuổi, nhưng anh biết thủ phạm chưa?”
Herman nhìn qua Burch, và tay luật sư lắc đầu.
“Chưa, chuyện đó chúng tôi chưa nắm được.”
Thế thì cuộc gặp này còn giá trị gì nữa đâu. Họ đang che đậy thông tin và sẽ không cho tôi biết gì cả.
“Được rồi. Anh có biết có quản giáo nào liên quan đến vụ tấn công, theo cách này hay cách khác không?”
“Dĩ nhiên là không,” Herman gắt giọng, như kiểu sao tôi dám hỏi một câu trắng trợn như thế chứ.
“Vậy là hôm nay, ba ngày sau vụ tấn công đó, anh vẫn không biết ai là thủ phạm và anh khẳng định là không nhân viên nào của nhà tù có liên quan. Phải thế không?”
“Đúng.”
Tôi đứng phắt dậy, quay người ra phía cửa. “Có hai phạm nhân đã tấn công thân chủ tôi. Người thứ nhất là Robert Earl Lane. Kiểm tra anh ta đi. Hiện giờ mắt anh ta đang sưng phù, mặt mày cũng bầm dập vì đã bị Quincy đập gãy mũi. Lane đã được điều trị tại bệnh xá của anh, chỉ vài tiếng sau vụ tấn công. Chúng tôi sẽ xin trát tòa để lấy bệnh án, nên đừng để chúng thất lạc nhé.”
Herman há hốc miệng, nhưng không nói lời nào. Luật sư Burch thì nhăn mặt, hoang mang cực độ.
Tôi mở cửa, dừng lại, và bồi câu chốt, “Còn nữa đấy. Tôi sẽ nói hết khi lôi các anh ra tòa liên bang.”
Rồi đóng sầm cửa.