Chương 37
Hạt Ruiz chỉ có hai thành phố tự trị. Seabrook, với dân số 11.000 người và Dillon, nhỏ hơn nhiều, với chỉ 2.300 dân. Dillon nằm về phía Bắc, xa nội địa, có thể nói là hẻo lánh và lạc hậu. Ở Dillon, công ăn việc làm khá là khó khăn và cũng chẳng có gì nhiều để buôn bán. Hầu hết thanh niên đều đi làm ăn xa để có kế sinh nhai. Những người còn ở lại, cả già và trẻ, đều chật vật sống với đồng lương còm cõi và trợ cấp của chính phủ.
Trong khi Hạt Ruiz có 80% dân số là da trắng thì ở Dillon tỷ lệ này là 50–50. Năm ngoái, trường trung học ở đó có 61 em tốt nghiệp, 30 trong số đó là da đen. Năm 1981, Kenny Taft đã tốt nghiệp trung học ở đó, như hai anh chị của mình. Gia đình họ sống cách Dillon vài cây số, trong nông trại lâu năm mà cha Kenny mua lại từ tài sản tịch biên của ngân hàng lúc Kenny còn chưa ra đời.
Vicky đã tìm hiểu về chuyện nhà Taft, và đau lòng là họ đã chịu quá nhiều đau khổ. Từ các bài cáo phó trên mạng, chúng tôi biết cha của Kenny đã mất năm 58 tuổi, không rõ nguyên nhân. Tiếp theo là Kenny, bị sát hại vào năm 27 tuổi. Một năm sau, người anh trai cũng thiệt mạng trong tai nạn giao thông. Hai năm sau, chị gái của Kenny, Ramona, chết ở tuổi 36, không rõ nguyên nhân. Bà Vida Taft, người bị bỏ lại sau cái chết của chồng và ba người con của mình, đã phải vào bệnh viện tâm thần của bang vào năm 1996, nhưng hồ sơ không nói rõ sau đó có chuyện gì. Thủ tục nhập viện ở Florida là tài liệu bảo mật, như mọi bang khác vậy. Chúng tôi biết bà đã được ra viện, dù lúc nào không rõ, vì theo mục cáo phó trên tờ tuần báo Seabrook thì bà đã qua đời bình an tại nhà. Không có chứng thực di chúc nào của bà và chồng bà cả. Nông trại cũ rộng hai héc-ta của họ giờ là tài sản của hơn chục đứa cháu, dù hầu hết chúng đã rời nơi này tìm kế sinh nhai. Năm ngoái, Hạt Ruiz định giá bất động sản này là 33.000 đô, và chưa rõ ai đã trả 290 đô-la tiền thuế để nó khỏi bị tịch biên.
Frankie đã lần được đến ngôi nhà nằm cuối con đường rải sỏi. Nơi này đúng là ngõ cụt, theo cả nghĩa bóng và nghĩa đen. Rõ ràng nó đã bị bỏ hoang từ lâu. Cỏ mọc xuyên qua những tấm gỗ ở hiên trước. Mấy cửa chớp đã rơi xuống, một số thì treo lủng lẳng trên những cây đinh gỉ sét. Cửa trước được khóa bằng một ổ khóa lớn, cửa sau cũng vậy. Các cửa kính vẫn còn nguyên vẹn, không vỡ tấm nào. Mái tôn có vẻ vẫn còn chắc.
Frankie rảo quanh nhà một lượt, rồi cẩn thận băng qua đám cỏ, trở lại xe. Anh đã lùng sục quanh Dillon hai ngày qua, và nghĩ mình đã tìm được một chuyện đáng để tìm hiểu.
Công việc ban ngày của Riley Taft là giám thị ở trường Trung học Dillon, nhưng việc chính của anh là chăm sóc cho giáo đoàn của mình. Anh là mục sư của Giáo hội Baptist Red Banks, cách chỗ này vài cây số nữa. Hầu hết người nhà Taft đều được chôn cất ở đây, với bia mộ đơn giản, có người còn không đặt bia mộ. Đàn chiên của Riley chưa đến trăm người và không thể đủ tiền trang trải cho một mục sư toàn nhiệm. Thế nên, anh mới phải làm công việc giám thị trường học. Sau vài cuộc gọi, Riley đồng ý gặp Frankie tại nhà thờ vào cuối giờ chiều.
Riley còn trẻ, gần bốn mươi tuổi, vóc người đậm, có vẻ dễ mến với nụ cười tươi rói. Anh dẫn Frankie vào nghĩa trang, chỉ khu mộ của nhà Taft. Cha anh, con cả trong nhà, được chôn giữa Kenny và mẹ mình. Anh kể cho Frankie những bi kịch của gia đình, ông anh mất năm 58 tuổi vì trúng độc gì đó không rõ, Kenny bị sát hại, cha anh chết ngay tại chỗ trong vụ tai nạn trên đường cao tốc, cô của anh thì chết vì bệnh bạch cầu ở tuổi 36. Bà Vida Taft cũng mất 12 năm trước, thọ 77 tuổi. “Tội nghiệp, bà ấy đã hóa điên,” Riley rơm rớm nước mắt. “Bà đã phải tiễn đưa cả ba người con, thật sự không còn sức lực nào để chịu đựng nữa. Bà đã buông bỏ hết rồi.”
“Bà của anh?”
“Phải. Mà sao anh lại muốn biết chuyện gia đình tôi?”
Trước đó, Frankie đã nói qua về Hội Vệ nhân, sứ mạng của chúng tôi, và chuyện chúng tôi đang cố giải oan cho Quincy Miller. Bây giờ anh mới nói cụ thể, “Chúng tôi nghĩ vụ sát hại Kenny không phải như lời cảnh sát trưởng nói đâu.”
Riley không có phản ứng gì. Anh quay mặt về phía nhà thờ nho nhỏ của mình, “Kiếm chút gì để uống đi.” Hai người đi qua các mộ phần khác của nhà Taft rồi rời nghĩa trang. Họ đi bằng cửa sau vào phòng hội nhỏ. Riley mở tủ lạnh ở góc, lấy ra hai chai nước chanh.
“Cảm ơn anh,” Frankie nói, rồi cả hai cùng ngồi xuống.
“Giả thuyết mới này là sao?” Riley hỏi.
“Anh chưa hề nghe đồn đại gì sao?”
“Chưa hề. Khi chú Kenny bị giết, thế giới như sụp đổ. Lúc đó, tôi mới 15, 16 tuổi, học lớp 10 thì phải, và Kenny như anh trai tôi hơn là chú. Tôi vô cùng ngưỡng mộ chú ấy. Chú là niềm tự hào của cả nhà. Rất thông minh, chu du nhiều nơi. Chú tự hào được làm cảnh sát nhưng còn muốn vươn cao hơn nữa. Chúa ơi, tôi thương chú Kenny vô cùng. Cả nhà đều vậy. Ai cũng thương chú ấy hết. Sybil, vợ chú ấy cũng rất tốt bụng. Vợ đẹp, con ngoan, mọi thứ đều hoàn hảo, thế mà chú ấy lại bị giết. Khi nghe tin, tôi đã ngã quỵ, khóc òa như con nít. Tôi không còn thiết sống nữa. Cứ cho tôi vào mộ với chú cho rồi. Chuyện đó thật quá kinh khủng.” Mắt anh rơm rớm, và anh hít một hơi dài. “Nhưng bấy lâu nay, chúng tôi luôn tin chú ấy vô tình gặp phải băng ma túy và bị bắn. Giờ sau hơn 20 năm, anh lại đến đây bảo tôi chuyện không phải thế. Có thật vậy không?”
“Thật. Chúng tôi tin những kẻ phục kích Kenny là người của cảnh sát trưởng Pfitzner, đồng lõa của bọn buôn ma túy. Kenny biết quá nhiều và Pfitzner sinh nghi.”
Phải mất một hai giây, nhưng Riley tiếp nhận được chuyện này. Chuyện rất sốc, nhưng anh muốn nghe thêm. “Chuyện này thì liên quan gì đến Quincy Miller?”
“Pfitzner đứng sau vụ sát hại luật sư Keith Russo. Russo kiếm tiền nhờ biện hộ cho dân buôn ma túy, rồi bị DEA ép làm chỉ điểm. Pfitzner biết chuyện, dàn xếp vụ giết người, rồi gài tội Quincy Miller gần như hoàn hảo. Kenny biết gì đó về vụ giết người, và chính chuyện đó khiến anh ấy mất mạng.”
Riley cười, lắc đầu, “Chuyện này có vẻ hoang đường thật.”
“Anh chưa hề nghe ai đồn chuyện này sao?”
“Chưa hề. Có chuyện này anh nên hiểu, anh Tatum à, Seabrook chỉ cách đây 25 cây số nhưng như cả trăm vậy. Dillon chìm trong thế giới riêng của mình. Một nơi khá là buồn tẻ. Dân ở đây chật vật lắm mới sống nổi, nên chẳng có thời gian để lo về chuyện xảy ra ở Seabrook hay bất kỳ nơi nào.”
“Chuyện đó tôi hiểu mà.” Frankie nói và uống một ngụm.
“Vậy anh nói là mình ngồi tù 14 năm vì tội giết người của kẻ khác?” Riley hỏi, rõ ràng là không tin nổi chuyện đó.
“Phải, 14 năm, 3 tháng, 11 ngày. Và Đức cha Post đã đến giải cứu tôi. Bị giam cầm và bị quên lãng, khi biết rõ mình vô tội, thì đau lắm Riley à. Chính vì thế chúng tôi mới nỗ lực hết sức vì Quincy và các thân chủ khác. Anh nên biết là ngay lúc này, có nhiều người đang bị giam cầm vì tội họ không phạm.”
“Anh nói đúng,” Cả hai cùng vui vẻ uống nước chanh trên tay.
Frankie thừa cơ lấn tới. “Có khả năng, dù rất nhỏ, là Kenny có giữ một số chứng cứ vốn được cất ở nhà kho sau văn phòng của Pfitzner tại Seabrook. Một cộng sự cũ của anh ấy vừa kể cho chúng tôi. Kenny biết tin về kế hoạch phóng hỏa tiêu hủy chứng cứ, nên anh đã lấy đi vài thứ trước vụ hỏa hoạn. Nếu đúng là Pfitzner phục kích Kenny, thì phải có lý do gì khiến ông ta muốn Kenny chết chứ. Chính là bởi Kenny biết gì đó và đang giữ thứ không nên giữ. Ngoài ra, tôi thấy chẳng còn lý do gì khác để giải thích động cơ của Pfitzner cả.”
Riley rất chú tâm vào câu chuyện. “Vậy vấn đề là, chú Kenny đã làm gì với chứng cứ đó? Và anh đến đây vì cái đó, đúng không?”
“Anh hiểu đúng rồi đấy. Tôi không nghĩ Kenny đem nó về nhà, vì như thế có thể gây nguy hiểm cho gia đình mình. Hơn nữa, lúc đó anh ấy đang sống ở nhà cho thuê.”
“Và thím cũng không thích ở đó. Nó nằm ở đường Secrectary, phía Đông Seabrook. Thím Sybil đã muốn chuyển qua chỗ khác.”
“Nhân tiện, chúng tôi biết Sybil đang ở Ocala, nhưng cô ấy không muốn nói chuyện với chúng tôi, một lời cũng không.”
“Thím ấy tử tế lắm, luôn cười với tôi. Tôi không gặp thím Sybil nhiều năm rồi, và chắc là cũng chẳng bao giờ gặp lại nữa. Vậy, anh Tatum—”
“Cứ gọi tôi là Frankie.”
“Được, Frankie, anh nghĩ có khả năng chú Kenny đã đưa mấy thứ đó về nhà của cha mẹ, ngay cuối đường bên kia, và giấu ở đó, phải chứ?”
“Đâu có nhiều chỗ để giấu mấy thứ đó, Riley. Nếu Kenny có gì đó cần giấu, một thứ rất giá trị, anh ấy sẽ muốn để nó ở nơi nào đó an toàn mà dễ lấy. Hợp lý chứ? Nhà cũ của ông bà anh có tầng gác mái hay tầng hầm không?”
Riley lắc đầu. “Chẳng có tầng hầm. Còn tầng gác mái thì hình như có. Tôi chưa hề thấy, cũng chưa hề lên đó.” Anh uống một hớp rồi nói, “Frankie à, tôi thấy vụ này có khi là công dã tràng cả thôi.”
Frankie bật cười, “Ừ, chúng tôi chuyên làm mấy việc kiểu đó mà. Chúng tôi tốn cả đống thời gian điều tra tất tần tật mọi thứ. Nhưng thỉnh thoảng, chúng tôi lại gặp may.”
Riley uống hết chai nước chanh, chầm chậm đứng dậy, bắt đầu đi vòng vòng quanh phòng. Rồi anh dừng lại, nhìn Frankie và nói, “Anh không được vào nhà đó. Quá nguy hiểm.”
“Nó đã bị bỏ hoang nhiều năm rồi mà.”
“Người sống bỏ nó, nhưng hồn ma bóng quế thì không, nơi đó bị ma ám, Frankie à. Chính mắt tôi đã thấy. Tôi nghèo lắm, nhưng có cho tôi cả ngàn đô, và cả một khẩu súng, để vào đó, tôi cũng chẳng ham. Chẳng ai trong nhà tôi dám vào đó cả.”
Đôi mắt Riley bỗng đờ đẫn vì nỗi sợ, và ngón anh run rẩy khi chỉ vào Frankie đang ngồi đó sững sờ. Riley bước tới bên tủ lạnh, lấy ra hai chai nữa, đưa một chai cho Frankie rồi ngồi xuống, hơi thở nặng nhọc, hai mắt nhắm nghiền, như thể đang lấy sức để kể một câu chuyện rất dài. Cuối cùng, anh cũng mở mắt ra, “Bà tôi, Vida, được bà ngoại mình nuôi lớn trong một khu định cư da đen cách đây 15 cây số. Giờ nó bị san bằng rồi. Bà Vida sinh năm 1925. Còn bà sơ của tôi thì sinh đâu đó vào những năm 1870, thời vẫn còn nhiều người da đen từng sinh ra trong cảnh nô lệ. Bà sơ của tôi làm phép phù thủy và tà thuật Phi châu, một chuyện cũng không hiếm vào thời đó. Tôn giáo của bà là kết hợp giữa phúc âm Kitô giáo và những tín ngưỡng duy linh của châu Phi. Bà từng làm bà đỡ và y tá, kiểu dùng thuốc mỡ, dầu, và trà thảo dược để trị bách bệnh. Bà sơ có tác động rất lớn đến bà nội tôi, và cả đời luôn xem mình là một bậc thầy về tâm linh, gọi như vậy vì ai cũng biết cái từ phù thủy, là thứ cấm kị. Anh đang nghe đấy chứ?”
Frankie vẫn đang nghe, nhưng cảm thấy mình đang phí thời gian. Anh gật đầu ra vẻ hăng hái, “Có chứ. Nghe hấp dẫn đấy.”
“Tôi đang kể ngắn gọn rồi, chứ chuyện về bà nội tôi viết ra cả quyển sách dày cũng được. Bà là một người rất đáng sợ. Bà thương con, thương cháu, và gồng gánh gia đình, nhưng bà cũng có những mặt rất tối tăm, huyền bí. Tôi sẽ kể một chuyện làm ví dụ. Cô của tôi, Ramona, mất năm 36 tuổi, anh thấy bia mộ của cô ấy rồi đấy. Khi còn trẻ, tầm 14 tuổi gì đấy, cô đã bị một tên xấu xa ở Dillon cưỡng hiếp. Ai cũng biết gã đó. Nhà tôi rất buồn, nhưng không muốn báo cảnh sát. Bà nội tôi không tin vào công lý của người da trắng. Bà nói để đấy bà xử lý. Một tối nọ, lúc nửa đêm trăng tròn, chú Kenny thấy bà đang ở sân sau làm tà thuật. Bà vỗ một cái trống nhỏ, cổ đeo mấy quả bầu khô, chân quấn da rắn, và hát một bài bằng thứ tiếng gì đó không ai hiểu. Sau này, bà mới cho chú Kenny biết là bà đã yểm bùa kẻ cưỡng hiếp cô Ramona. Tin đồn lan ra, mọi người ở Dillon, ít nhất là mọi người da đen, đều biết gã đó đã bị nguyền rủa. Vài tháng sau, gã bị chết cháy trong một tai nạn giao thông, và từ đó người ta không còn dám đến gần bà tôi. Vì sợ bà quá mà.”
Frankie im lặng nghe, không bình phẩm lời nào.
“Thời gian trôi đi, bà tôi ngày càng điên hơn, cuối cùng chúng tôi không còn lựa chọn nào khác. Chúng tôi phải thuê luật sư ở Seabrook để đưa bà vào trại tâm thần. Bà nổi cơn lôi đình với cả nhà và đe dọa chúng tôi. Thậm chí còn đe dọa cả luật sư và thẩm phán. Ai cũng kinh hoàng. Chúng tôi chẳng thể làm gì với bà khi bà ở trại, và bà đã tìm được cách thuyết phục họ cho mình về nhà. Bà bảo chúng tôi phải tránh xa bà và ngôi nhà, và chúng tôi làm theo như vậy.”
Frankie giờ mới có cái để nói, “Theo tờ cáo phó, thì bà mất năm 1998.”
“Phải, vào năm đó, nhưng không ai biết ngày nào. Anh họ Wendell của tôi thấy lo và tìm đến nhà, thì thấy bà đang nằm đó rất bình an thanh thản, ngay ngắn chính giữa giường, chăn kéo lên tới cằm. Lúc đó bà đã trút hơi thở cuối cùng vài ngày rồi. Bà để lại một mảnh giấy căn dặn phải chôn cất bà cạnh các con, không làm tang lễ gì cả. Bà còn viết rằng việc cuối cùng bà làm là yểm lời nguyền lên ngôi nhà đó. Dù nói ra chẳng hay ho gì, nhưng chúng tôi đều nhẹ nhõm khi bà ra đi. Chúng tôi vội vã chôn cất bà trong một ngày mưa bão, làm lễ an táng sơ sài, chỉ có người thân trong gia đình dự. Và lúc hạ hòm của bà xuống, thì có tia sét đánh vào một cây trong nghĩa trang, chúng tôi ai nấy đều sởn tóc gáy. Cả đời tôi chưa hề thấy sợ hãi đến thế, và cũng chưa lúc nào mừng hơn thế khi thấy đất đã phủ kín hòm của bà.”
Riley uống một hơi dài, lấy bàn tay chùi miệng. “Bà tôi đấy. Chúng tôi gọi là bà, nhưng hầu hết bạn bè chúng tôi đều gọi bà là phù thủy, dù chỉ dám nói sau lưng.”
Với giọng chắc nịch, Frankie quả quyết, “Ta phải vào tầng gác mái xem sao.”
“Anh điên rồi.”
“Ai giữ chìa khóa vậy?”
“Tôi, nhưng nhiều năm rồi tôi chẳng vào đó. Đã cắt điện nhà đó từ lâu rồi, nhưng thỉnh thoảng ban đêm vẫn thấy có ánh sáng lập lòe trong đó. Ánh sáng ma trơi đó cứ bay vòng vòng. Chỉ có điên mới vào đó. Tôi cần ra ngoài hít khí trời một chút.”
Thế là cả hai ra ngoài, bước lên xe.
Riley nói, “Chuyện này là thật đấy. Chú Kenny chết hơn hai chục năm rồi, và bấy lâu nay đâu có ai quan tâm gì. Thế mà trong vòng một tuần lại có anh và hai người nữa đến hỏi thăm.”
“Hai người nữa?”
“Tuần trước có hai người da trắng đến đây, hỏi thăm về chú Kenny. Hỏi xem chú ấy lớn lên ở đâu? Đã sống ở đâu? Được chôn đâu? Tôi chẳng thích họ và giả vờ không biết gì.”
“Họ là dân ở đâu thế?”
“Tôi không hỏi. Mà tôi nghĩ họ cũng không chịu nói đâu.”