Chương 41
Tin đồn loan dần ra và vài người nhà Taft không vui lắm với chuyện có người săm soi quanh ngôi nhà ma ám của bà Vida. Ai cũng cảm thấy bà đã yểm bùa nó trước khi chết, nơi đó đang lúc nhúc oán linh không thể siêu thoát. Mở cửa nhà đó có thể giải phóng đủ loại ác ma, và chắc chắn hầu hết đều nhắm vào con cháu của bà. Bà chết mà trong lòng mang oán thù với những người đã tống bà vào trại tâm thần. Những ngày cuối đời bà đã loạn thần lắm rồi, nhưng thế đâu ngăn bà yểm lời nguyền lên những người thân thuộc. Theo lời Frankie, một nhánh quỷ thuật Phi châu tin rằng lời nguyền sẽ chết theo phù thủy, nhưng số khác lại nói lời nguyền tồn tại vĩnh viễn. Chẳng người nhà Taft nào muốn biết chuyện này là thực hay hư.
Tôi và Frankie đi trên chiếc bán tải bóng bẩy của anh đến Dillon. Anh lái, còn tôi nhắn tin. Trên ngăn đồ giữa hai ghế là một khẩu Glock 9 ly, có lẽ anh đã mua và đăng ký bằng tên mình. Anh định sẽ cầm nó theo khi vào căn nhà đó.
“Anh không tin mấy chuyện về quỷ thuật, phải không Frankie?” tôi hỏi.
“Tôi chẳng biết nữa. Chờ đến khi anh thấy cái nhà đó đi. Lúc đấy anh sẽ hết háo hức muốn vào cho mà xem.”
“Vậy là anh ngại hồn ma bóng quế, yêu tinh nhền nhện?”
“Cứ cười đi, sếp.” Anh đưa tay qua khẩu Glock. “Đến lúc đó anh sẽ ước gì có một khẩu thế này.”
“Anh bắn hồn ma được chắc?”
“Chưa hề làm thế. Nhưng nếu cần, chắc là làm được.”
“Thế thì anh cầm súng vào trước, còn tôi theo sau, được chứ?”
“Để đến khi được vào đó rồi biết.”
Chúng tôi đi ngang qua thành phố Dillon buồn thảm, rồi đi sâu vào vùng đồng quê. Cuối con đường rải sỏi là một chiếc bán tải cũ đang đỗ trước một ngôi nhà đổ nát. Khi chúng tôi giảm tốc để dừng, Frankie quay sang tôi, “Kia kìa. Người bên phải là Riley, bạn tôi. Người kia, theo tôi đoán, là Wendell, bà con với anh ấy. Anh chàng này có thể gây phiền phức cho ta đây.”
Wendell tầm 40 tuổi, nhìn quần jeans và đôi giày dính bùn thì có lẽ là dân làm nông trại. Anh ta chẳng buồn mỉm cười khi chúng tôi chào hỏi giới thiệu nhau, Riley cũng thế. Rõ ràng là họ đã bàn cãi nhiều, và hai người này đang không mấy vui vẻ. Sau một phút nói chuyện gẫu, Riley hỏi, “Vậy các anh định làm gì ở đây? Các anh muốn gì?”
“Chúng tôi muốn vào trong nhà xem xét vài chỗ. Tôi chắc là anh biết lý do vì sao rồi.”
“Anh Post này,” Wendell lịch sự lên tiếng, “Tôi biết tường tận mọi ngóc ngách trong nhà này. Hồi nhỏ, tôi thường đến đây ở. Cũng chính tôi phát hiện bà đã chết. Và không lâu sau đó, tôi đã cố sống đây với vợ con mình. Nhưng bất thành. Nơi này bị ám rồi. Bà tôi đã nguyền rủa nó, tin tôi đi, thật đấy. Anh tìm mấy cái hộp, nhưng tôi nói thật, chẳng có gì đâu. Tôi nghĩ là có một tầng gác mái nho nhỏ, nhưng chưa hề lên đó. Chúng tôi sợ chẳng dám lên.”
“Thế thì đi xem chút thôi nào,” tôi nói, cố tỏ ra tự tin. “Các anh cứ ở đây trong lúc tôi và Frankie tìm kiếm.”
Riley và Wendell nhìn nhau ái ngại. Riley mới nói, “Không dễ thế đâu, anh Post à. Chẳng ai muốn mở cửa ngôi nhà đó.”
“Không một ai sao?” tôi hỏi.
“Không một ai trong gia đình tôi muốn thế,” Wendell nói, giọng cáu kỉnh hẳn. “Chúng tôi còn có nhiều anh em họ quanh đây, một số đã đi xa, và không ai muốn nơi này bị xáo trộn. Các anh không biết bà tôi, nhưng tôi cho các anh biết, bà tôi còn đây và đừng nghĩ chuyện giỡn mặt với bà.” Wendell nói mà giọng lộ rõ vẻ run sợ.
“Tôi tôn trọng chuyện đó,” tôi cố nói thật tỉnh.
Một làn gió bỗng từ đâu lướt tới luồn qua những cành liễu vắt ngang nhà. Như thể đó là ám hiệu, ngay lập tức, mái sau nhà vẳng lên tiếng cọt cà cọt kẹt và tay tôi liền nổi hết cả da gà. Cả bốn người chúng tôi nhìn chăm chăm vào ngôi nhà, nín thở.
Tôi thấy cần phải nói chuyện tiếp. “Các anh, chuyện này thật sự là mò kim đáy bể. Chẳng ai biết chắc Kenny Taft có lấy được chứng cứ nào trước vụ hỏa hoạn không. Mà nếu có, cũng chẳng ai biết anh ấy đã làm gì với chúng. Chúng có thể nằm trên tầng gác mái, nhưng cũng có thể đã biến mất từ lâu rồi. Việc này có thể chỉ là công cốc, nhưng chúng tôi không muốn bỏ sót manh mối nào. Chúng tôi chỉ muốn xem quanh một chút rồi đi. Tôi hứa đấy.”
“Lỡ anh tìm được gì thì sao?” Wendell hỏi.
“Chúng tôi sẽ gọi cho cảnh sát trưởng và giao nộp nó. Có lẽ nó sẽ giúp ích cho vụ của chúng tôi. Nhưng chỉ khi vật đó không có giá trị gì với gia đình anh.” Với mấy anh dân quê nghèo này, ý tưởng có nữ trang gia bảo được giấu đâu đó trong tầng gác mái có vẻ viển vông.
Wendell lùi lại một bước, đi lui đi tới như đang ngẫm nghĩ gì, dựa lưng vào thành xe, nhổ một cái, khoanh tay rồi nói, “Tôi nghĩ là không.”
Riley cũng giải thích thêm, “Hiện giờ, người trong nhà nghe lời Wendell hơn tôi. Nếu anh ấy bảo không, thì là không.”
Tôi đưa tay lên trời, “Một tiếng, chỉ một tiếng thôi, rồi chúng tôi sẽ không bao giờ quấy quả anh nữa.”
Wendell vẫn lắc đầu. Riley nhìn anh rồi quay sang Frankie, “Tôi rất tiếc.”
Tôi hậm hực nhìn hai anh em họ. Có thể đây chỉ là ép giá, thì ép luôn đi. “Được rồi. Nhà này được Hạt Ruiz định giá 33.000 đô. Chia ra một năm là gần trăm đô-la mỗi ngày. Hội Mục vụ Vệ nhân chúng tôi sẽ thuê nhà và đất trong một ngày với giá hai trăm đô. Từ chín giờ sáng mai cho đến năm giờ chiều. Kèm điều kiện gia hạn thêm một ngày với cùng mức giá đó. Ý các anh sao?”
Hai anh em nhà Taft có vẻ thấm đề nghị này và đưa tay gãi cằm. “Có vẻ hơi thấp,” Wendell nói.
Riley hỏi luôn, “Năm trăm một ngày thì sao? Tôi nghĩ giá đó thì chấp nhận được.”
“Thôi nào, Riley. Chúng tôi là tổ chức phi lợi nhuận, làm gì có tiền. Chúng tôi đâu thể vung tiền tứ tung được. Ba trăm.”
“Bốn trăm, giá cuối.”
“Được rồi. Tôi đồng ý. Theo luật Florida, thỏa thuận về bất động sản phải được viết thành văn bản rõ ràng. Tôi sẽ thảo tờ hợp đồng một trang, hẹn gặp các anh ở đây lúc 9:00 sáng mai. Chốt chứ?”
Riley có vẻ hài lòng rồi. Wendell hơi gật đầu. Tuyệt.
Chúng tôi rời Dillon và cười ngặt nghẽo với nhau trên đường. Frankie thả tôi xuống chỗ xe tôi đỗ tại Phố Chính của Seabrook, rồi lên đường về hướng Đông. Anh ở lại một nhà nghỉ đâu đó giữa chỗ này và Gainesville, nhưng như mọi khi, chẳng nói rõ là ở đâu.
Vừa sau 5:00 chiều, tôi vào văn phòng luật của Glenn Colacurci, nghe ông đang nói điện thoại oang oang đâu đó ở mấy phòng bên trong. Bea, cô thư ký dễ thương của ông xuất hiện, nở nụ cười rạng rỡ như thường lệ. Tôi theo cô vào bên trong, thấy Glenn đang ngồi sau bàn, hàng đống giấy tờ rải rác khắp mặt bàn, rơi cả xuống dưới. Thấy tôi ông liền bật dậy, tay bắt mặt mừng như vừa gặp được đưa con thất lạc bấy lâu nay. Vừa xong, ông liền nhìn đồng hồ, như thể chẳng biết bây giờ là mấy giờ rồi vậy, “Chà, ở đây là năm giờ, chắc chỗ khác cũng năm giờ rồi đấy. Anh muốn thế nào?”
“Làm ly bia thôi nhé,” tôi nói, cố kiếm thứ nào nhẹ nhất có thể.
“Một bia và một ly đúp,” ông quay sang bảo Bea, và cô liền cất bước đi ngay. “Nào, ngồi đi,” ông chỉ tay sang ghế sofa, còn mình chống gậy bước qua và thả người trên chiếc ghế bành bọc da cũ kĩ đầy bụi. Tôi đẩy cái chăn mỏng ra rồi ngồi xuống chiếc sofa với lớp nệm lún sâu lắm rồi. Tôi cho là chiều nào ông cũng đánh một giấc trên sofa này cho tan bớt những thứ ông uống vào giờ ăn trưa. Đặt cả hai tay lên cán gậy, cằm thì kê lên tay, ông cười hiểm ác, “Tôi không tin nổi là Pfitzner vào tù rồi.”
“Tôi cũng thế, đúng là trời cho.”
“Anh kể tường tận cho tôi đi.”
Biết thừa mọi lời tôi nói sẽ được phát lại ở quán cà phê ngay sáng hôm sau, nên tôi chỉ nói sơ qua chuyện FBI nắm thóp được một quản giáo nào đó và cả đầu mối liên hệ của anh ta với một băng đảng trong tù. Rồi chuyện này lại dẫn đến một tổ chức làm việc cho dân buôn ma túy, từ đó lại dẫn đến Pfitzner, sau đó ông ta đã tự rơi vào bẫy, ngây thơ như dân gà mờ. Giờ ông ta đang phải đối diện bản án 30 năm.
Bea đem đồ uống lên, và chúng tôi nâng ly. Tôi thấy hình như ông uống whiskey và có vẻ trong ly không có mấy đá. Glenn quẹt môi rồi hỏi, “Vậy anh ghé lại đây vì công chuyện gì thế?”
“Tôi muốn gặp cảnh sát trưởng, Wink Castle, vào ngày mai. Chúng tôi đã trao đổi về chuyện mở lại vụ này, nhất là vì giờ ta đã biết Pfitzner cố giết Quincy.” Nói chừng đó là đủ để giải thích lý do tôi đến đây rồi. “Hơn nữa, tôi tò mò về ông. Lần trước ta gặp nhau ở Gainesville, có vẻ ông rất hứng thú khi tìm hiểu vụ này. Ông có phát hiện thêm được gì không?”
“Không hẳn, tôi bận quá mà.” Ông chỉ tay về quần đảo giấy trên bàn như thể ông làm việc quên ăn quên ngủ vậy. “Có may mắn tìm được gì về chuyện của Kenny Taft không?”
“Có thể nói là có. Tôi cần ông giúp đôi chút về vấn đề pháp lý.”
“Quyền nuôi con, say xỉn lái xe, ly hôn, giết người? Kiểu gì tôi cũng chơi được tất.” Nói xong ông cười phá lên như để tự thưởng cho óc hài hước của mình, tôi cũng cười phụ họa. Đây là câu đùa cửa miệng của ông suốt ít nhất 50 năm rồi.
Tôi nghiêm túc trình bày hợp đồng của mình với nhà Taft và kế hoạch tìm kiếm trong ngôi nhà cũ. Tôi đưa ông một tờ 100 đô, ép ông phải nhận. Giờ ông là luật sư của tôi rồi, như thế theo nguyên tắc mọi chuyện phải bảo mật. Tôi cần một hợp đồng thuê đơn giản để anh em nhà Taft dễ hiểu, cùng một tấm séc từ quỹ tín thác của Glenn. Tôi chắc anh em nhà họ thích tiền mặt, nhưng tôi lại thích giấy tờ hơn. Nếu tìm được chứng cứ trong nhà đó, chuyện chứng minh gốc gác của nó sẽ phức tạp lắm nên bắt buộc cần có giấy tờ rõ ràng. Vừa nhấp đồ uống, tôi và Glenn vừa bàn chuyện này như hai luật sư lão luyện đang phân tích một vấn đề hóc búa độc nhất vô nhị vậy. Ông nắm khá rõ tiến trình và chỉ ra vài vấn đề tiềm tàng mà tôi chẳng nghĩ đến. Uống hết ly, ông lại gọi Bea lấy thêm ly nữa. Khi cô đem rượu đến, ông bảo cô ở lại đó ghi chép, hệt như những ngày xưa cũ. Chúng tôi chốt lại những điểm căn bản rồi Bea về lại bàn mình.
Ông nói, “Tôi để ý thấy anh ngắm chân cô ấy.”
“Đúng rồi. Làm vậy có gì sai à?”
“Hoàn toàn không. Cô ấy thật sự khả ái. Mẹ cô ấy, Mae Lee, là quản gia nhà tôi, mỗi tối thứ Ba bà ấy đều dọn món nem cuốn ngon nhất đời. Tối nay anh gặp may rồi đấy.”
Tôi cười và gật đầu nhận lời. Dù sao tôi cũng đâu có kế hoạch gì khác.
“Hơn nữa, ông bạn Archie của tôi cũng đến. Có lẽ tôi từng nhắc tên ông ấy rồi. Nói thật, hình như hôm ở The Bull, tôi hơi quá chén. Chúng tôi là bạn đồng lứa, cùng làm luật sư cách đây mấy chục năm rồi. Vợ mất để lại gia tài kha khá nên ông bỏ nghề luật, sai lầm quá lớn. Mười năm qua, ông ấy chán muốn chết, sống một mình và chẳng có gì để làm. Nghỉ hưu tệ thế đấy, Post à. Tôi nghĩ ông ấy kết bà Mae Lee. Dù gì, Archie mê nem cuốn và nói dóc một tấc đến trời. Ông ấy uống cũng giỏi, lại có hầm rượu khá lớn. Thế nào ông ấy cũng đem đến một chai rượu ngon. Anh mê rượu chứ?”
“Không hẳn.” Nếu có xem qua sao kê tài khoản của tôi, chắc ông ấy chẳng hỏi câu đó làm gì.
Ông lắc lắc viên đá cuối cùng trong ly, sẵn sàng thêm ly nữa. Bea quay lại với hai tờ dự thảo. Chúng tôi thay đổi vài chỗ rồi đưa cô ấy đi in.
Nhà của Glenn nằm ở một con phố hơi tối, cách Phố Chính bốn khối nhà. Tôi lái xe vòng vòng một lát để giết thời gian rồi rẽ vào nhà ông, đỗ sau một chiếc Mercedes cũ, có lẽ là của ông Archie. Tôi nghe thấy tiếng họ cười đâu đó, liền vòng ra sân sau. Họ đã ngồi sẵn trên mái hiên, ngả người trên hai ghế lắc đan bằng sợi mây, trên đầu họ là hai cái quạt trần kiểu xưa đang kêu cọt kẹt. Archie vẫn ngồi yên trên ghế khi chúng tôi chào hỏi giới thiệu nhau. Ông cũng già như Glenn, và có vẻ không được khỏe mạnh lắm. Cả hai đều để tóc dài và rối, có vẻ là kiểu tóc một thời được xem là sành điệu, lãng tử. Bộ cánh của họ đều là vest vải sọc đã cũ lắm rồi và không thắt cà vạt. Hai người đều đi giày thể thao kiểu mấy ông già. Ít ra Archie không cần đến gậy. Niềm đam mê với rượu khiến mũi ông đỏ thường trực. Glenn vẫn uống bourbon của mình, nhưng Archie và tôi thì thử chai Sancerre ông đem tới. Mae Lee đem đồ uống ra, tôi nhận thấy bà cũng duyên dáng hệt như cô con gái Bea.
Ngồi chưa được bao lâu, Archie đã không kìm nổi nữa rồi, “Post, anh là người tống Pfitzner vào tù phải không?”
Tôi không dám nhận công lao gì, và kể lại câu chuyện như một người quan sát ngoài lề biết được chút ít thông tin từ FBI thôi. Có vẻ thời trước, Archie thường xung đột với Pfitzner và không mấy ủng hộ những việc lão làm. Đơn giản là ông không thể tin nổi rằng sau bao nhiêu năm, lão ranh ma đó vẫn có thể bị tống vào tù.
Archie kể lại chuyện một thân chủ của ông bị hỏng xe ở Seabrook. Cảnh sát tìm được một khẩu súng dưới ghế trước, và vì lý do gì đó tin rằng anh chàng này đã giết một cảnh sát. Pfitzner cũng can dự và ủng hộ người của mình. Archie bảo Pfitzner đừng động đến cậu đó, nhưng ông ta vẫn cứ thẩm vấn. Cảnh sát dùng vũ lực bắt cậu ta nhận tội và phải lãnh năm năm tù. Chỉ vì bị hỏng xe. Kể xong chuyện đó, Archie chửi rủa Pfitzner thậm tệ.
Các chuyện sau đó đều là kiểu mấy chiến binh già kể chuyện chinh chiến lặp đi lặp lại mãi không chán. Chủ yếu tôi chỉ nghe họ kể chuyện thôi, nhưng vì cả hai ông già này hứng thú với công việc của Hội Vệ nhân nên tôi cũng kể vài chuyện cho họ, dù cố kể sao cho thật ngắn gọn. Chẳng ai đề cập đến chuyện nhà Taft và mục đích thật sự của tôi trong chuyến này. Ông luật sư già của tôi rất chuẩn trong chuyện bảo mật. Ông Archie mở thêm một chai Sancerre. Bà Mae Lee dọn một bàn ở tiểu đình cạnh bờ rào quấn quít dây hoa đậu tím và cỏ ngựa. Hơi nóng ngoài này cũng được xoa dịu bớt nhờ cái quạt trần cọt kẹt. Ông Archie nghĩ Chablis sẽ hợp hơn với không khí ngoài này, nên đi lấy một chai. Glenn, giờ chắc cũng ngà ngà rồi, chuyển sang uống rượu vang cùng chúng tôi.
Món nem cuốn đúng là ngon tuyệt. Có rượu đưa đẩy và cái bụng thiếu ăn kêu gào nên tôi ăn rất hăng. Archie vẫn tiếp tục rót thêm rượu, và khi Glenn để ý thấy tôi bắt đầu tỏ vẻ muốn ra về, ông liền bảo, “Trời, cứ uống đi. Anh ngủ ở đây cũng được mà. Nhà tôi nhiều phòng lắm. Archie ở lại đây suốt. Ai lại muốn ngà ngà lái xe vào giờ này chứ?”
“Làm thế là thành mối đe dọa cho xã hội đấy,” Archie hùa theo.
Món tráng miệng bà Mae dọn lên là đĩa bánh tráng nướng mềm mịn. Archie rót thêm một ly Sauternes cho món cuối này, và nói mãi về chuyện món nào rượu nấy. Rồi hai ông già chuyển sang uống cà phê, chủ yếu là vì thứ này không có cồn nữa, và ngay lập tức, một hộp xì gà được bày ra bàn. Họ chộp lấy như thể con nít thấy kẹo. Tôi chẳng nhớ lần cuối hút xì gà là lúc nào nữa, nhưng có nhớ mình chỉ vài hơi là đã xanh ngắt như tàu lá chuối. Dù vậy, tôi chẳng phải là kiểu người ngại thách thức. Tôi hỏi xin một điếu loại nhẹ và Glenn đưa tôi một điếu Cohiba gì đó, xì gà Cuba chính hiệu. Cứ thế, chúng tôi ngồi lắc lư trên ghế và nhả khói vào không gian.
Archie là một trong số ít luật sư ở đây hợp tính với Diana Russo, và ông kể về cô ấy. Ông chưa bao giờ nghi ngờ cô có dính líu đến cái chết của chồng. Tôi chỉ lắng nghe, không bình luận gì. Cũng như mọi người khác ở Seabrook, ông đã cho rằng Quincy đích thị là hung thủ và nhẹ nhõm khi anh ấy bị kết tội. Nhưng giờ họ không thể tin nổi mình đã sai đến thế nào. Họ cũng không tin nổi chuyện Pfitzner đang ngồi tù và không biết bao giờ mới ra.
Chuyện này đúng là quá thỏa mãn. Nhưng Quincy vẫn đang mang tội giết người, và chúng tôi còn rất nhiều việc phải làm.
Lần cuối tôi liếc nhìn đồng hồ thì đã gần nửa đêm. Nhưng tôi quyết không chịu bỏ cuộc trước hai ông già này. Họ hơn tôi ít nhất cũng 25 tuổi nhưng đã quá quen với những cuộc rượu dài hơi này. Tôi giả vờ hùa theo Archie khi ông muốn đổi sang brandy, nhưng may thay, Glenn đã bắt đầu ngáy khò khò, rồi tôi cũng gục lúc nào không hay.