Chương 42
Vào ngày bắt đầu khám phá ngôi nhà ma, thời tiết trở xấu như một lẽ đương nhiên trong phim ảnh. Hai tuần qua Florida không mưa, thậm chí người ta còn lo hạn hán sắp đến, nhưng trên đường chúng tôi đến Dillon, trời bắt đầu giăng mây đen tối sầm. Frankie lái xe còn tôi thì ngồi đó nghiến răng thở nhọc.
“Anh chắc mình ổn chứ, sếp?” Frankie hỏi, chắc là lần thứ ba rồi.
“Anh nghĩ gì thế, Frankie?” tôi bác ngay. “Tôi đã nói rồi mà. Tối qua tôi vất vả lắm, ăn uống cả đống, lại hút cả xì gà, rồi ngủ ngoài hiên như chết đến tận ba giờ sáng, xong một con mèo nhảy xổ lên người làm tôi sợ mất hồn mất vía. Sao tôi biết đấy là ghế của ông Glenn được? Rồi chúng tôi chẳng ai ngủ lại nổi. Thế nên giờ miệng tôi khô khốc, mắt đỏ ngầu, lại dính đầy lông mèo. Tôi thấy mình như xác chết biết đi ấy. Vậy đó.”
“Anh buồn nôn không?”
“Chưa. Nhưng nếu có tôi sẽ báo. Còn anh thì sao? Phấn khích được khám phá nhà ma nhỉ, ngôi nhà bị phù thủy Phi châu yểm bùa.”
“Ừ, háo hức quá mà.” Anh lại đưa tay sờ khẩu Glock, cười khúc khích, như thể thích thú lắm khi thấy tôi thê thảm như vậy.
Riley và Wendell đang chờ trước nhà. Gió thổi ào ào và mưa chắc cũng sắp trút xuống. Tôi đưa mỗi người một bản sao hợp đồng thuê rồi nói qua mấy điểm căn bản. Thật ra, họ chỉ quan tâm đến tiền, nên tôi liền đưa họ tờ chi phiếu đề tên cả hai, để ai cũng có thể rút tiền từ quỹ tín thác của công ty Luật Colacurci.
“Sao không đưa tiền mặt?” Wendell cau mặt hỏi.
Tôi cũng cau mặt đúng kiểu luật sư, “Không được dùng tiền mặt trong giao dịch bất động sản,” Tôi không chắc ở Florida có buộc vậy không, nhưng cứ nhắc đến luật lệ thế nào cũng có uy hơn.
Frankie ra sau xe, lấy chiếc thang hai mét rưỡi và một xà beng sáng bóng anh mới mua hôm qua. Tôi thì cầm hai cây đèn pin và một chai thuốc diệt rệp. Chúng tôi băng qua đám cỏ cao, đến đống đổ nát từng là hiên trước, rồi đứng lại nhìn chăm chăm vào ngôi nhà. Wendell chỉ tay, “Thiết kế hai tầng như nhau, dưới tầng trệt là phòng ngủ và phòng nghỉ. Cầu thang nằm bên phải, ngay chỗ phòng nghỉ. Trên lầu là hai phòng ngủ. Trên nữa là tầng gác mái, nhưng có thể các anh chẳng tìm ra được đâu. Tôi nói lại nhé, tôi chưa hề lên đó, chẳng hề muốn lên. Và thật sự là cũng chưa hề hỏi ai về nó cả. Liền kề sau nhà có thêm công trình phụ, xây lúc nào không rõ. Chỉ là nhà tắm và bếp, không có tầng trên. Thế thôi, giờ các anh cứ tự nhiên.”
Tôi lấy chai diệt rệp phun quanh tay và chân, điệu bộ hăng hái, quyết không để lộ chút dè dặt nào. Tôi cho là nơi này đầy nhện và đủ thứ bọ quái ác mà chắc tôi chưa hề nghe tên. Xong rồi tôi đưa chai cho Frankie. Xịt xong, anh lấy thang đặt cạnh cửa, thật ra là để phòng hờ thôi, chứ chưa chắc đã dùng.
Riley bước lên, với sự dè dặt vẻ như đóng kịch nhưng tôi chắc chắn là rất thật, anh lấy chìa khóa nhét vào ổ khóa nặng nề trên cửa. Tách một tiếng, ổ khóa bật ra. Anh thoái lui ngay lập tức. Cả hai người nhà Taft có vẻ sẵn sàng thoát đi rồi. Một tia sét đánh xuống cách đây không xa làm chúng tôi ai cũng rợn người. Mây đen đang vần vũ khắp bầu trời. Đến lúc phải vào vai chiến binh can trường rồi, tôi lấy chân đẩy cánh cửa kêu kèn kẹt. Chúng tôi nín thở chờ đợi và thở phào khi không có thứ quái ác gì xông ra. Tôi quay sang Wendell và Riley, “Lát nữa gặp lại nhé.”
Đột nhiên, cánh cửa đóng sầm lại, nổ một tiếng rầm” khô khốc. Frankie rít lên, “Chết tiệt!” còn tôi thì giật bắn cả mình, Cả hai anh em nhà Taft đều rụt người, há hốc mồm, Tôi vờ tỏ ra can đảm, cười lớn, “Trời, vụ này vui thật,” rồi bước tới đưa chân đẩy cửa lần nữa.
Chúng tôi lại chờ đợi. Vẫn không có thứ gì xông ra. Cũng chẳng ai đóng sầm cửa lần nữa. Tôi mở đèn pin trên tay, Frankie cũng thế. Anh cầm đèn bằng tay trái, tay phải cầm xẻng, khẩu Glock nằm gọn gàng trong túi đeo hông. Nhìn mặt Frankie thì thấy ngay là anh đang kinh hoảng lắm rồi. Biểu cảm của một người đã sống qua 14 năm trong tù đấy. Tôi đẩy cửa mở toang, rồi cả hai bước vào. Bà Vida đã chết từ 13 năm trước, và đáng ra căn nhà này phải giữ nguyên hiện trạng, nhưng có vẻ ai đó đã dọn sạch nội thất ở đây rồi. Trong nhà không hôi hám gì, nhưng có mùi ẩm mốc và bụi lâu năm. Sàn gỗ đầy nấm và mốc, đến nỗi tôi có thể cảm nhận mình đang hít vào cả đống vi khuẩn chết người. Cầm đèn pin, chúng tôi tìm kiếm trong phòng ngủ bên trái. Trên giường là tấm nệm lớn phủ đầy bụi bẩn. Có lẽ đây là chỗ bà Vida trút hơi thở cuối cùng. Nền nhà bẩn vương vãi những mảnh đèn võ, áo quần cũ, sách báo đủ thứ. Chúng tôi qua phòng nghỉ, cầm đèn pin rọi một lượt. Có chiếc tivi từ thời những năm 1960 đã bị rạn màn hình. Giấy dán tường đã bong tróc cả ra. Hàng lớp bụi bẩn và mạng nhện giăng khắp nơi.
Khi chúng tôi rọi đèn vào cầu thang hẹp, chuẩn bị bước lên thì mưa đổ nặng hạt xuống mái tôn kêu rầm rầm đến nhức óc. Gió bắt đầu mạnh lên, rung lắc những bức tường gỗ.
Tôi bước lên ba bậc, Frankie đi ngay sau tôi, đột nhiên cửa chính lại đóng sầm. Thế là chúng tôi bị kẹt trong này với đám oán linh bà Vida để lại. Tôi khựng người trong thoáng chốc. Nhưng với tư cách là người chỉ huy, chiến binh tiên phong trong cuộc thám hiểm này, tôi không được thể hiện chút sợ hãi nào, kể cả khi bụng dạ bắt đầu nôn nao và trống ngực đập thình thịch.
Cứ nghĩ đến lúc kể lại vụ này cho Vicki và Mazy đi.
Thế là lại có thêm một chuyện nữa mà các giáo sư chẳng dạy cho ta ở trường luật.
Tôi và Frankie lên được tầng hai, nóng như phòng xông hơi, nếu đây không quá tối chắc sẽ thấy được làn hơi nước lơ lửng luôn ấy. Mưa và gió vẫn đập ầm ầm liên hồi lên mái và các cửa kính. Chúng tôi vào phòng ngủ bên phải, có một tấm nệm, một cái ghế gãy và một đống áo quần rách nát. Rọi đèn lên sàn, chúng tôi tìm kiếm thứ gì đó trông như tấm cửa lên tầng gác mái, nhưng chẳng thấy gì. Chỉ có những thanh gỗ thông từng được sơn quét nhưng giờ đã bong cả rồi. Nơi góc phòng có thứ gì đó chuyển động, làm đổ một cái lọ. Tôi chĩa đèn vào, “Lùi lại. Rắn!” Một con rắn dài, đen tuyền, có lẽ không có độc, nhưng lúc như thế này ai quan tâm chứ? Nó không cuộn mình mà trườn đi, tránh chỗ chúng tôi, có lẽ nó thấy động vì bị chúng tôi quấy rầy.
Tôi không nhờn với rắn nhưng cũng không sợ chúng đến chết khiếp. Frankie thì khác, anh rút khẩu Glock ra ngay.
“Đừng bắn,” tôi hét lên. Chúng tôi đứng yên, chĩa đèn về phía con rắn một hồi lâu, mồ hôi đổ ra bết cả áo, nín thở. Nó dần trườn vào dưới đống giẻ, rồi biến mất tăm.
Mưa đã nhẹ dần, chúng tôi cũng trấn tĩnh lại. “Thế còn nhện thì sao?” Tôi trêu Frankie.
“Thôi đi!”
“Cẩn thận nhé, nhền nhện khắp nơi đấy.”
Khi chúng tôi dò dẫm ra khỏi phòng, vừa đi vừa quét đèn xuống sàn sợ lỡ có rắn hay thứ gì đó, thì một tia sét đánh ầm xuống đâu đó quanh đây. Tôi sợ nếu không chết vì ác linh hay rắn độc thì cũng chết vì đau tim mất. Mồ hôi đang nhỏ giọt trên trán chúng tôi, áo cũng ướt đẫm. Phòng ngủ còn lại có một cái cũi nhỏ, trên cũi có vẻ là một tấm chăn màu xanh quân đội cũ nát. Trong phòng chẳng có đồ nội thất hay trang trí gì cả. Giấy dán tường đã rơi hết xuống. Tôi liếc nhìn ra cửa sổ, qua làn mưa có thể thấy mờ mờ Wendell và Riley đang ngồi trong xe, giữa cơn bão, nhìn chăm chăm vào ngôi nhà với niềm tin là khi đã khóa cửa xe rồi thì oán linh không thể làm gì họ được.
Chúng tôi đá mấy thứ bừa bộn trên sàn để kiểm tra xem có rắn không, rồi hướng mắt lên trần nhà. Lại chẳng thấy dấu hiệu tấm cửa gì cả. Tôi cho là có thể Kenny Taft đã giấu mấy chiếc thùng trên đó và che giấu lối lên vĩnh viễn hoặc ít nhất là đến lúc anh có thể đem chúng trả lại đúng chỗ. Làm sao tôi biết anh ấy đã làm cách nào chứ?
Frankie để ý thấy có nắm đấm bằng sứ trên một cánh cửa nhỏ hơn, có lẽ là buồng thay đồ. Anh gọi tôi, chỉ tay vào đó, nhưng rõ ràng là muốn tôi đến mở cửa thay mình. Tôi cầm nắm cửa, vặn thật mạnh, nó mở tung ra và đột nhiên ngay sát mặt tôi là một bộ xương người trắng hếu. Frankie bủn rủn tay chân, khuỵu gối xuống đất. Tôi bước lui vài bước, và nôn mửa.
Gió bắt đầu đập vào nhà mạnh hơn nữa, rõ ràng là âm thanh một cơn bão hình thành. Tôi thấy đỡ hơn sau khi nôn ra hỗn hợp nem cuốn, bia, rượu vang, rượu brandy, và đủ thứ khác. Frankie cũng đã trấn tĩnh lại, và chúng tôi chầm chậm chĩa đèn pin vào buồng thay đồ. Bộ xương treo lủng lẳng trên một sợi dây nhựa, bàn chân gần chạm sàn. Dưới chân là một vùng chất lỏng đen thui, đặc quánh, có lẽ là máu và nội tạng thối rữa qua nhiều năm tháng. Nhìn bộ xương, có vẻ đây không phải là treo cổ. Sợi dây vòng quanh ngực, dưới hai tay, nên cái đầu nghiêng về bên trái và và hai hốc mắt trống trơn nhìn xuống dưới, như kiểu muôn đời bàng quan vậy.
Đúng chuyện Hạt Ruiz cần luôn, lại thêm một vụ án lâu năm chưa phá. Còn chỗ giấu nạn nhân nào hay hơn là một ngôi nhà ma mà chủ nhân của nó quá sợ hãi chẳng dám đặt chân vào. Hoặc có thể, đây là một vụ tự sát. Chúng tôi rất sẵn lòng giao nó lại cho cảnh sát trưởng Castle. Đây là chuyện của người khác.
Tôi đóng cửa lại, vặn nắm đấm cửa chắc hết sức có thể.
Vậy là chúng tôi có hai lựa chọn, tìm kiếm thật kỹ trong phòng kia với con rắn lẩn khuất đâu đó, hoặc ở lại đây với bộ xương người trong buồng. Lựa chọn thứ hai có vẻ hợp với chúng tôi hơn. Frankie dùng xà beng đục lớp trần, lôi hẳn nó xuống. Trong hợp đồng thuê, chúng tôi không có quyền làm hư hại gì, nhưng ai quan tâm mấy chuyện này chứ? Hai chủ nhân của nó đang ngồi bên ngoài xe, sợ chết khiếp chẳng dám vào đây đâu. Chúng tôi thì có việc cần làm cho xong, và tôi cũng thấm mệt rồi. Trong khi Frankie tiếp tục lôi thêm một tấm nữa xuống, tôi cẩn thận đi xuống lầu, mở cửa chính ra. Tôi gật đầu ra hiệu chào Riley và Wendell qua màn mưa, rồi lấy thang đem lên lầu.
Khi Frankie lôi được tấm thứ tư xuống, một lọ mứt trái cây rơi xuống vỡ tan tành bắn tung tóe dưới chân chúng tôi. “Hay rồi đây.” Tôi kêu lên. “Trên đó chắc là chỗ chứa đồ.” Có thành công ban đầu, Frankie càng hăng hái và chẳng bao lâu đã biến một phần ba lớp trần thành ván vụn rớt xuống sàn, còn tôi thì quăng chúng ra góc. Chúng tôi chẳng hề tính quay lại lần nữa, và tôi cũng chẳng quan tâm chỗ này sẽ thành thế nào.
Tôi kê thang, rón rén leo lên khoảng trống trên trần. Lúc đã ngoi quá nửa người vào tầng gác mái, tôi cầm đèn pin rọi quanh tìm kiếm. Chỗ này không có cửa sổ, tối đen như mực, ẩm mốc và chật chội, chắc chiều cao chỉ hơn một mét. Tầng gác mái của một ngôi nhà lâu đời mà thế này thì quá gọn gàng, rõ ràng chủ của nó không phải là người mua sắm nhiều, và cũng cho thấy có lẽ Kenny đã niêm phong nó từ hơn 20 năm trước.
Chỗ này không thể nào đứng thẳng được, nên tôi và Frankie phải bò. Mưa đang dội xối xả trên mái tôn cách đầu chúng tôi có mấy phân. Chúng tôi phải hét lên mới nghe được nhau. Frankie và tôi chia nhau đi hai hướng, và tiến rất chậm. Chúng tôi bò qua đống mạng nhện dày, nhìn kỹ mọi ngóc ngách đề phòng rắn rết. Tôi bò qua một chồng ván gỗ thông, có lẽ do các thợ xây để lại đây từ cả trăm năm trước. Còn có một chồng báo cũ, tờ trên cùng đề tháng 3 năm 1965.
Frankie gọi, và tôi bò qua, không khác gì con chuột, bụi giờ đã bám cả lớp trên quần jeans của tôi rồi.
Anh vừa kéo ra một tấm bạt, để lộ ba thùng carton giống hệt nhau. Anh chĩa đèn pin vào tờ giấy dán trên đó, tôi cúi sát đến để đọc. Chữ viết tay trên tờ giấy đã phai đi nhiều, nhưng vẫn đủ rõ. Sở Cảnh sát Hạt Ruiz—Hồ sơ Chứng cứ QM14. Cả ba thùng đều được niêm phong bằng băng dính màu nâu.
Tôi dùng điện thoại chụp cả chục tấm nguyên trạng. Để bảo vệ chúng, Kenny khôn khéo đặt chúng trên ba tấm ván để phòng khi sàn tầng gác mái này bị úng nước vì mưa dột. Nhưng có vẻ chỗ này đã được niêm phong kín mít, và nếu trận mưa lớn thế này mà nó vẫn khô thì chắc chẳng trận mưa nào làm khó được nó.
Mấy thùng này hóa ra lại nhẹ tênh. Chúng tôi nhẹ nhàng đưa ra nó ra chỗ thoáng. Tôi xuống trước, rồi Frankie chuyền cho tôi. Khi đã đưa được chúng xuống phòng, tôi chụp thêm mấy tấm. Rồi chẳng muốn nán lại với bộ xương và lũ rắn làm gì, nên chúng tôi liền tìm cách ra ngoài. Hiên trước đã xập xệ và đang ướt sũng vì trận mưa, nên chúng tôi để mấy cái thùng trong nhà, chờ thời tiết khá lên chút đã.