← Quay lại trang sách

Chương 44

Glenn mời Frankie và tôi ghé hiên nhà ông thưởng thức thêm một bữa món Tàu, nhưng chúng tôi biết thừa ý ông rồi nên nhất mực từ chối. Cuối giờ chiều hôm đó tôi rời Seabrook, Frankie lái xe của anh chạy ngay phía sau để bảo tiêu món hàng giá trị tôi đang chở. Nó nằm ngay trên ghế trước cạnh tôi, chỗ tôi luôn có thể để mắt đến. Một hộp nhỏ chứa cây đèn pin hơn hai chục năm trời chưa ai sờ đến và một túi nhựa đựng chiếc áo dính máu. Chúng tôi lái không nghỉ suốt ba tiếng, và về đến Savannah khi trời đã tối. Tôi cất các chứng cứ trong tủ khóa ở phòng mình để có thể ngủ sát bên mà canh nó. Vicki đang nướng gà, Frankie và tôi đều đói meo cả rồi.

Vừa ăn tối, chúng tôi vừa bàn xem nên đi xe hay máy bay đến Richmond. Tôi không muốn bay vì chẳng thích chuyện phải giải trình với an ninh sân bay về các chứng cứ này. Một nhân viên buồn chán hẳn sẽ hoảng lên vì cái áo dính máu. Và nghĩ đến chuyện cây đèn pin bị ai đó động chạm can thiệp vào càng kinh khủng hơn nữa.

Thế nên, lúc 5:00 sáng, chúng tôi đã lên đường trên chiếc bán tải của Frankie, vừa an toàn vừa rộng rãi hơn, anh cầm tay lái còn tôi thì cố chợp mắt thêm chút nữa. Đến biên giới bang ở Nam Carolina, thì anh bắt đầu gà gật nên tôi đổi sang lái thay. Chúng tôi mở trúng một đài R&B ở Florence, và lẩm nhẩm hát theo Marvin Gaye. Bữa sáng là bánh quy và cà phê mua ở cửa hàng đồ ăn nhanh phục vụ khách ngồi trên xe, rồi tấp vào vệ đường mà ăn. Chúng tôi phải phá lên cười khi nhắc lại chuyện cùng giờ này hôm qua. Trên tầng gác mái đó, chúng tôi đã kinh hoàng, nghĩ thế nào cũng bị các oán linh tóm lấy. Khi kể lại vụ nôn mửa tơi bời của tôi lúc đụng phải bộ xương trong buồng, Frankie cười đến đau cả bụng không thể nào ăn nổi nữa. Tôi mới nhắc bản thân anh cũng đã bủn rủn như cọng bún. Anh thừa nhận mình đã khuỵu cả gối và đưa tay chộp ngay khẩu Glock.

Gần 4:00 chiều, chúng tôi đến trung tâm Richmond. Kyle Benderschmidt đã chừa lịch đón chúng tôi và đội ngũ của ông sẵn sàng vào việc ngay. Chúng tôi theo ông đến một phòng lớn trong dãy phòng xét nghiệm ở đây. Ông giới thiệu hai đồng nghiệp và hai kỹ thuật viên, rồi cả năm người đeo găng tay y tế vào. Hai máy quay, một chĩa thẳng vào bàn, một gắn trên cao chĩa xuống, cả hai đều được kích hoạt. Tôi và Frankie lùi ra nhưng không bỏ sót bất kỳ thao tác nào của họ, vì máy quay trên trần truyền hình ảnh trực tiếp đến một màn hình gắn trên tường ngay trước mặt chúng tôi.

Kyle nhìn vào máy quay chính diện, nói tên của mọi người trong phòng, ngày tháng địa điểm và mục đích của cuộc khám nghiệm này. Ông vừa làm vừa thuật lại các thao tác, lấy chiếc hộp ra khỏi túi nylon, từ từ mở nó ra, lấy ra chiếc túi nhỏ hơn đang đứng cây đèn pin. Ông mở khóa zip, đặt món đồ chúng tôi trông đợi lên một tấm sứ trắng 90✕90, rồi dùng thước đo chiều dài của nó, 28cm. Ông giải thích với máy quay rằng vỏ đèn pin màu đen là một dạng kim loại nhẹ, có lẽ là nhôm, với kết cấu bề mặt không trơn mịn. Ông cho rằng cái này sẽ gây khó khăn cho việc tìm dấu vân tay. Thế là kiến thức chuyên gia bắt đầu tuôn ra, ông nói những dấu vân tay ẩn có thể tồn tại trên các bề mặt phẳng trong hàng chục năm nếu không bị tác động gì, nhưng lại nhanh chóng biến mất nếu bề mặt bị tác động bởi môi trường. Ông bắt đầu vặn nắp để lấy pin, một chút rỉ sét rơi ra từ đường rãnh nắp. Kyle lắc nhẹ cây đèn pin và hai viên pin đại rơi xuống. Ông không chạm vào chúng, nói trên pin thường có dấu vân tay. Những tên trộm và tội phạm khôn khéo hầu như luôn lau đèn pin của mình, nhưng lại quên lau mấy viên pin.

Tôi cũng chưa hề nghĩ đến chuyện đó. Tôi và Frankie nhìn nhau thán phục. Chuyện này đúng là mới với chúng tôi.

Kyle giới thiệu một đồng nghiệp tên Max, cũng là người giỏi hơn về dấu vân tay. Max thay thế ông làm người tường thuật, cúi người xuống hai viên pin và giải thích rằng vì màu của chúng chủ yếu là đen nên anh sẽ dùng một loại bột trắng, gần giống với bột tan. Với cây cọ nhỏ và bàn tay khéo léo, anh quét bột tan lên hai viên pin, giải thích rằng nó sẽ dính vào số dầu cơ thể trong lớp da sót lại trên đó, nếu có. Ban đầu chẳng có gì. Anh nhẹ nhàng lăn viên pin và quét thêm bột vào. “Được rồi,” anh reo lên. “Có vẻ là vân ngón tay cái.”

Đầu gối tôi run lên, đến mức chắc phải kiếm gì đó ngồi xuống. Nhưng không thể làm thế được, bao nhiêu người đang nhìn vào tôi. Benderschmidt hỏi, “Anh thấy sao, luật sư? Có lẽ tiến hành khám nghiệm vân tay luôn không phải ý hay nhỉ?”

Tôi gượng cười với ông. Suốt nhiều tháng qua, tôi luôn quả quyết rằng chẳng bao giờ tìm được hung thủ thực sự đâu. Nhưng chẳng phải chúng tôi đã có dấu vân tay của hắn rồi sao?

Tôi nói, “Phải, cứ dừng ở đó đã. Có lẽ cái này phải trình ra trước tòa, nên tôi thấy để phòng xét nghiệm của Florida xử lý nó thì hay hơn.”

“Đồng ý,” Kyle đáp. Max cũng gật đầu. Hai người này quá chuyên nghiệp, không thể nào làm ảnh hưởng gì đến chứng cứ được.

Tôi chợt nảy ra ý tưởng. “Ta có thể chụp ảnh và gửi nó cho họ ngay được không?”

“Được,” Kyle nhún vai nói, rồi gật đầu với một kỹ thuật viên. Anh ấy nhìn sang tôi, “Chắc anh nóng lòng xác minh nhân thân kẻ đó nhỉ?”

“Đúng thế, nếu được.”

Kỹ thuật viên lôi ra một cái máy kỳ cục mà theo lời anh là máy ảnh độ phân giải cao của hãng nào đó mà tôi chẳng đọc tên nổi, rồi họ dành suốt 30 phút tiếp theo để chụp cận cảnh vân tay. Tôi gọi cho Wink Castle và lấy số của bên phòng xét nghiệm của bang. Castle muốn biết chúng tôi có tiến triển gì chưa, tôi nói là chưa.

Khi họ chụp ảnh xong rồi, Kyle đặt hai viên pin vào hộp nhựa rồi chuyển sang xử lý mặt kính. Tôi nhìn tấm ảnh chụp nó cả ngàn lần rồi và biết trên đó có các vết được cho là máu của Russo. Ba vết hơi lớn hơn một chút với đường kính tầm hơn 3mm. Kyle dự tính lấy vết lớn nhất và tiến hành một loạt xét nghiệm. Vì máu đã khô trong gần 23 năm qua, nên không dễ lấy ra. Nhìn họ làm việc, thật chẳng khác gì các bác sĩ phẫu thuật thần kinh. Kyle và Max lấy mặt kính ra, đặt trên một đĩa petri sạch. Kyle trở lại vai trò người tường thuật. Dùng một ống tiêm nhỏ, ông nhỏ một giọt nước cất vào vết máu lớn nhất. Tôi và Frankie chăm chú theo dõi trên màn hình.

Giọt nước hòa tan rồi một giọt chất lỏng màu hồng lăn ra khỏi mặt kính, rơi vào đĩa petri. Kyle và Max gật đầu hài lòng. Họ tháo găng tay, một kỹ thuật viên cùng làm theo.

Kyle quay sang tôi, “Chúng tôi sẽ lấy một mẫu máu nhỏ trên áo và so sánh chúng với nhau. Rồi chúng tôi sẽ làm vài xét nghiệm, chẩn đoán các mẫu này. Sẽ mất chút thời gian. Chúng tôi sẽ làm cả tối nay.”

Tôi biết nói gì đây? Tôi muốn có kết quả, một kết quả có lợi cho chúng tôi, và có ngay lập tức, nhưng đành chịu vậy. Tôi cảm ơn Kyle và Max rồi ra về. Frankie và tôi rời tòa nhà rồi rảo quanh khu trung tâm Richmond tìm một quán ăn. Ngồi đó ăn sandwich, uống trà đá, chúng tôi cố tránh nhắc đến máu, nhưng có vẻ là bất khả thi. Nếu mẫu máu lấy từ cây đèn pin khớp với mẫu máu trên chiếc áo thì chuyện vẫn chưa rõ ràng, và còn những vấn đề để ngỏ.

Nhưng nếu hai mẫu đó khác nhau, Quincy sẽ được tự do.

Còn vân tay thì sao? Không thể mặc nhiên khẳng định đây cũng là kẻ đã bóp cò, trừ phi chứng minh được cây đèn pin từng hiện diện ở hiện trường vụ án. Nếu hai mẫu không khớp, thì cây đèn pin không hề có mặt hiện trường, chỉ là Pfitzner gài vào thùng xe của Quincy. Và còn nhiều ức đoán nữa.

Trên quãng đường dài từ Savannah đến Richmond, tôi và Frankie bàn xem có nên báo cho nhà Taft là có một bộ xương trong buồng thay đồ nhà họ không. Lúc báo cho cảnh sát trưởng Castle, chúng tôi thấy anh không quan tâm lắm. Một mặt, có thể ai đó trong nhà Taft đã mất tích nhiều năm trước, và cái này sẽ giúp giải được bí ẩn đó. Nhưng mặt khác, họ đã quá sợ nơi đó đến nỗi khó lòng tin được họ chịu quan tâm đến một cái chết ma ám khác.

Cuối cùng, chúng tôi quyết định chuyện đó quá ly kỳ, không nói thì đúng là phí. Frankie mở máy gọi cho Riley Taft, anh vừa tan giờ làm ở trường và ngạc nhiên khi biết chúng tôi đã tiến xa đến thế với các chứng cứ tìm được. Frankie giải thích rằng hầu hết đồ trong ba thùng đó giờ nằm trong tay cảnh sát trưởng, nhưng chúng tôi đã lấy được cái mình cần. Rồi hỏi thêm nhà anh ấy có người nào mất tích không, trong mười năm trở lại ấy.

Riley hỏi chuyện đó có gì quan trọng vậy.

Frankie nhăn mặt kể về khám phá phụ của chúng tôi trong ngôi nhà ma vào sáng hôm qua. Trong buồng thay đồ ở phòng phía Đông có một bộ xương nguyên vẹn chưa ai đụng vào, được cột dựng lên bằng một sợi dây vắt ngang ngực. Có lẽ không phải là tự sát. Có lẽ là một vụ giết người, nhưng không phải bằng cách treo cổ, dù chưa có gì chắc chắn.

Trong lúc Riley há hốc mồm vì sốc thì Frankie phải cố bặm môi để không cười thành tiếng. Riley bảo Frankie đừng đùa vớ anh. Frankie nghiêm giọng bảo chuyện này dễ chứng minh mà. Cứ vào đó mà xem. Và hơn nữa, Frankie bảo Riley và Wendell nên vào nhà càng sớm càng tốt để đưa bộ xương đi chôn cất cho đàng hoàng tử tế.

Riley cáu lên, bắt đầu chửi thề. Khi anh bình tĩnh lại rồi, Frankie xin lỗi vì đã báo tin xấu, nhưng anh ấy thật lòng nghĩ họ nên làm thế. Có lẽ cảnh sát trưởng sẽ sớm liên lạc họ và muốn đến đó nắm tình hình.

Frankie nghe Riley nói gì đó, cười và nói, “Không, Riley, là tôi thì không đốt nó đâu.”

Đáp lại là tràng quát tháo ầm ĩ của Riley, đến nỗi Frankie phải đưa điện thoại ra xa tai, còn miệng thì nói lui nói tới, “Thôi nào, Riley, đừng đốt nó mà.”

Đến lúc gác máy, có vẻ anh tin chắc thế nào ngôi nhà cũng sẽ sớm chìm trong biển lửa.