Bến Cũ
Thường thì mỗi con sông dù to hay nhỏ, cũng chở chí ít trên mình nó vài ba chục cái bến. Tên gọi của bến sông cũng giống như tên người, có tên có lai lịch gốc gác, có tên chỉ là một sự vũ đoán, muốn hiểu thế nào cũng được.
Không kể thượng nguồn, sông Hương bắt đầu từ ngã ba Bằng Lăng về cửa Thuận An cũng đã có hơn chục cái bến với nhiều tên gọi gần gũi. Bắt đầu từ bến Tuần, nơi hợp lưu của hai dòng Tả và Hữu trạch. Không hiểu sao tôi cứ nghĩ đây là bến sông dân giã và buồn nhất của dòng Hương. Nơi vào những buổi chiều mưa tơi tả, có các em nhỏ khăn quàng đỏ đội tơi đi học về, các mẹ bán bánh nậm lọc, gánh hàng rong nhẹ như gió bấc mà đong đủ mấy đời người. Và nhất là mấy cái quán cóc bên liêu xiêu mái rạ, đong đưa mấy tấm phên tre trét cứt trâu, không đủ che ấm khách đợi đò. Ngồi co ro trong quán cóc nhìn sang bên kia sông, chỉ thấy mờ mờ tỏ tỏ sau mưa một bóng đò nhẫn nại, chầm chậm rẽ ngang con nước như đuổi theo tiếng gọi "đò ơi".
Xuôi về phố Huế, sông Hương vui hơn với bến đò Linh Mụ. Nơi này, lòng sông như đôi tay vẫn còn mở ra rất rộng. Bến Linh Mụ đón đò dọc nhiều hơn là đò ngang. Vào mùa hè, bến đông như hội. Du khách dập dìu đi lễ chùa. Đò đậu san sát, sầm uất, gợi nhớ một quá khứ mịt mùng cổ tích. Vua Nguyễn viếng chùa với đoàn ngự lâm quân áo lễ, gươm dài. Ngựa xe nườm nượp. Quan với quân lên chùa. Xuôi thêm một tầm sông nhỏ là bến đò Kim Long. Ai đó bao cách trở, có còn nhớ không một câu ca dao cổ lắm rồi " Tình về Đại lược, duyên ngược Kim Long". Chuyến đò dọc đã tác hợp cho bao duyên phận, và cũng chia quyên rẽ thuý bao mối tình quê. Có một thứ trái cây miệt vườn Kim Long đổ xuống đò để xuôi về Tam Giang, và ngược lên là thuỷ hải sản và cá dìa, cá ong, tôm rằn nước lợ....ngon nổi tiếng. Có một thời bến Kim Long là bến tắm gội của các nàng Ỷ Lan. Những mái tóc huyền buông thẫm cả một khúc sông làm bồi hồi bao trái tim trai trẻ.
Nhưng có lẽ nổi tiếng hơn hết là bến đò Phú Vân Lâu, với câu thơ đã thành bất tử của Ưng Bình Thúc Dạ Thị "Chiều chiều trước bến Vân Lâu.." Lịch sử dân tộc từng có một vết cắt đau thương nằm ngay khúc sông này. Đó là tấm lòng ưu tư ngồi trên nước không ngăn được nước của một nhà vua trẻ. Đối diện về bên kia sông là bến đò Thừa Phủ-Quốc Học. Nghe bảo khi chưa có cầu bắc ngang sông Hương, vua quan nhà Nguyễn tế đàn Nam Giao thường đi qua khúc sông này. Trùng trùng ngựa xe qua sông áo mão vua quan ướt đẫm trong sương mù.
Nếu bến Tuần buồn, bến Phú Văn Lâu đài các một thời "Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo" thì bến đò Đông Ba là bến vui náo nhiệt. Suốt một khúc sông chảy dọc theo chợ đều là bến đò. Đứng trên chợ Đông Ba chỉ thấy đò và nón nhấp nhô như sóng. Có nhìn thật kỹ mới nhận ra dưới chiếc nón lá là đôi vai gầy mỏng của các mẹ. Tần tảo dưới nắng mưa, phải chăng đời mẹ cũng là một bến đò không bến...Từ bến Đông Ba xuôi ngang một tí là bến đò Đập Đá. Dù Đập Đá bây giờ là một con đường, nhưng tên gọi thì vẫn như xưa. Đã nhiều năm nay bến đò Đập Đá là bến ở quần cư của nhiều hộ dân vạn đò. Bến thành cái eo như vòng tay mẹ cưu mang bao cuộc đời hạ bạc.
Dường như kể mãi mà vẫn chưa hết. Còn nữa là bến đò chợ Dinh, nơi cậu bé Thanh Tịnh cho chuồn chuồn cắn rốn để tập bơi. Có đứa trẻ đi học nào mà không từng trốn học, ra bến sông để chơi với bạn bè. Những trò chơi con trẻ của nhà văn Thanh Tịnh ngày xưa, bây giờ những đứa trẻ vẫn tiếp tục chơi, áo con trai có rách thì vòi mẹ vào chợ Dinh mà mua. Khác ngày xưa một chút là chợ Dinh bây giờ còn bán áo con gái nữa. Bao nhiêu năm tháng cũ, bến đò chợ Dinh chỉ chở có trầu và áo con trai...Lam lũ những cuộc đời nghèo khó.
Khó mà biết được rằng một đời người đã và sẽ đi qua biết bao nhiêu bến đò. Cứ hết dòng sông này ta lại gặp một dòng sông khác. Như chính cuộc đời của con người, mỗi bến sông tự cầm giữ trong nó một hình hài với những thành vận riêng tư. Đêm thao thức trong cơn mơ đòi đoạn của Huế, nghe tiếng ếch nhái rêu hoang cả lòng, bất chợt ký ức chói loà như sấm, kìa như ai đang gọi "bớ...đò".