← Quay lại trang sách

Những Tiếng Rao Đêm

Tuổi thơ sống trong một hẻm phố nghèo và hay ăn quà vặt, những tiếng rao đêm qua nhiều năm tháng trở thành một nỗi ám ảnh trong tôi. Có bao nhiêu thứ quà bánh, thì cũng có chừng ấy tiếng rao. Mà ngay cả những người bán cùng một mặt hàng quà bánh, tiếng rao cũng không có một chút gì giống nhau. Tiếng rao của các em nhỏ khác rất nhiều tiếng rao của người già. Phụ nữ rao hàng cũng khác đàn ông. Nó không chỉ mang sắc thái của giới tính, tuổi tác mà dường như thoảng trong tiếng rao là cái gì đó rất hoàn cảnh của một đời người. Có thể cảm được và hình dung được. Có một điểm chung là tiếng rao nào nghe cũng buồn xa xót, cứ bị ngắt quãng ở những âm vực không thể ngờ được. Bạn hãy hình dung giúp tôi vào một ngày mùa đông, mưa gió bão bùng, rét thâm tím phố, bỗng xé màn đêm là tiếng rao khàn "mì nóng dòn....đơi....". Rồi một cụ già nhỏ thó bó mình trong một tấm tơi mỏng, bước đi dò dẫm như không có mục đích. Hằng đêm, cứ vào một giờ nhất định, cụ lại đi qua ngõ phố nhà tôi. Cho đến một ngày không thấy cụ nữa.....Thèm đi và hay đi, qua mỗi vùng đất, tôi lại nhận ra cái "nết" riêng của những tiếng rao đêm. Trong sổ tay của tôi ghi chép nhiều tiếng rao hay và lạ, có kí âm và ghi chú hẳn hoi. Một lần trú lại Bình Định, suốt ngày đã mệt nhoài với mấy cái tháp Chàm, đêm về ngã lưng đã nghe tiếng rao "ơi bén hỏ đơi...." (ai bánh hỏi đây) vừa lạ vừa vui. Rao vui nhất là người bán trứng vịt lộn. Tôi ước chừng thị xã Pleiku là nơi bán rao trứng vịt lộn nhiều nhất. Đêm nào nằm ở nhà người quen trên đường Hai Bà Trưng, cũng nghe "Hô...vi lô đơi..."(hột vịt lộn đây). Có hôm mệt mỏi, chỉ nghe một tiếng rao tắt: "lộn đơi..". Chữ "lộn" do nguyên tắc hài thanh, khi rao nghe tục nhưng mà thanh, vừa buồn cười, vừa thú vị.

Lại nhớ có một lần cùng anh bạn người xứ Nẫu, ngồi lai rai trên một vỉa hè Huế. Đang vui và hăng, bỗng tôi thấy mặt anh đực ra lo lắng như con ngỗng. Cố át tiếng mưa, tôi hỏi "cậu đau à?". Anh ta đưa tay lên miệng ra dấu im lặng "dường như tau nghe có tiếng rao bán bánh cốm". Tôi chả nghe thấy gì còn anh thì cứ thắc thỏm "đấy, đấy, đấy, đang đến gần đấy". Và đúng là...cuối cùng trong làn mưa, xuất hiện hai cái bầu to như trong truyện Tam quốc và tiếng rao cấp thúc hối hả "Cúm, cúm, cúm....đơi". Tiếng rao đi qua, anh như một người khác, không nói không cười, mặt buồn dàu dàu. Mãi sau trước lúc về anh bảo: "Tau nhớ quê...Ba tau ngày xưa bán cốm dạo nuôi tau thành bác sĩ bây giờ"

Gần đây phố xá cứ cao mãi lên. Người thì nhiều mà tiếng rao đêm lại cứ "vắng dần". Hôm rồi ra Hà Nội, ở tít trên tầng sáu của khu phố trung tâm. Bỗng dưng thèm nghe thèm biết người Hà Nội bán quà bánh đêm rao như thế nào. Nhưng làm sao nghe được. Chỉ nghe tiếng rao của gió Tây Hồ vọng đến, thao thao như tiếng nói của người.

*

Trường Tiền Biết Mấy..Là Yêu

Nâng cao hiệu quả giao thông. Và cũng chỉ chừng ấy sự dễ dãi thôi, cầu Trường Tiền đã không còn là nó sau khi được phục chế.

Mất những chiếc ban công xinh xắn, cầu Trường Tiền như mất đi đôi cánh thiên thần khi nó vươn qua dòng Hương thơ mộng để làm mỗi một việc duy nhất là kết nối hai bờ. Người Huế cũng thôi cù rủ nhau lên Kapia cầu ngắm trăng, và hàn huyên những câu chuyện dường như dài dằng dặc của mỗi đời người. Thiệt thòi nhất thương thay lại thuộc về những đôi trai gái. Tình yêu dắt họ lên cầu rồi bỏ họ cô đơn ở đó với chiếc hành lang dài thông thống không một chỗ để dừng chân. Còn nói như ai đó là các bà mẹ nghèo tần tảo gánh những bèo, nậm, lọc qua chiếc cầu dài không có chỗ để xoay trở đòn gánh mà nghỉ vai. Mất đi một yếu tố vật chất nho nhỏ trong đời sống người dân Huế cũng mất luôn những thói quen thị dân thân thích của mình, là đứng trầm tư từ giờ này qua giờ khác trên Kapia cầu. Từ ngày cầu được hiện đại hoá với hệ thống đèn cao áp sáng rực, trăng cũng thôi không còn mấy ý nghĩa khi nó cứ bợt bạt, tàn úa. Tôi đâm ra là người hoài cổ, cứ tiếc nuối vô vàn những điều lẽ ra không thể mất kia..

Đi vào lịch sử vùng Huế với những dày vò thương tật, kỳ diệu thay cứ sau mỗi lần "ngoạ bệnh", cầu Trường Tiền lại trỗi dậy phục sinh với một sức sống mới, đẹp đẽ và mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Dường như đó là sức sống của niềm kiêu hãnh, kết tinh từ máu, mồ hôi và nước mắt của một vùng đất đa địa tầng văn hoá. Quyết không thể làm mất những gì đã làm nên bản sắc của mình. Sống nhiều năm, những cư dân Huế phát hiện ra rằng: cầu Trường Tiền đẹp nhất vào hai thời điểm trong ngày: sáng sớm và chiều tối. Vào buổi sáng, mặt cầu ướt đẫm sương đêm. Không gian ngào ngạt hương hoa sen. Nghe như trong những hạt sương móc rơi rơi xuống thành cầu có tiếng vó câu gập ghềnh của nhạc ngựa. Lao xao trên bến, dưới thuyền tiếng nói cười của thôn nữ đi phiên chợ sớm Đông Ba. Và xa khuất phía mạn dưới cầu là những ánh đèn chài bập bềnh của vạn đò Cồn Hến. Khi ở phương Đông, bình minh choàng thức, những tia nắng đầu tiên của ngày mới rực rỡ hình rẽ quạt đã nhuộm một nửa thân cầu vàng óng ánh. Buổi chiều, cầu Trường Tiền bạc trắng như tóc người già. Những đường cong cứ khòm mãi xuống cho đến khi đã rũ hết những bụi bặm, ưu phiền của một ngày đã sống. Từ những hàng cây ven sông, bóng đêm lặng lẽ bò ra và sắc tím như một niềm yên uỷ cùng với sương mù phủ kín mặt sông. Tôi cho đây là thời khắc đẹp đẽ nhất của Trường Tiền. Ngay cả trong mùa đông mưa gió bão bùng,cầu Trường Tiền cũng mang một vẻ đẹp riêng, cái vẻ đẹp của sự chịu đựng mụ mị. Từng đám con gái áo dài đi học mình mẩy ướt như một bầy chim cánh cụt so le trong gió bấc, mưa phùn.

Một trăm năm đã qua. Bao nhiêu ruộng dâu thành bể cả. Dù ngày nắng, dù ngày mưa, cầu Trường Tiền đã sống như một lời khải huyền của Huế, để thêm vào chất thơ chút bụi bặm của cuộc đời