← Quay lại trang sách

Giấy Mực Học Trò

Đã lâu lắm, kể từ khi thôi học, không còn nhìn thấy cuốn vở học trò. Nhớ những năm tháng đất nước khó khăn, vở học trò bìa mỏng dính, còn ruột thì thâm sì. Dòng kẻ cũng không một chút mạch lạc. Ngòi bút chạy trên trang giấy nhiều khi đang trơn tru bỗng dưng khựng lại, vấp một miếng bả mía nhỏ. Lấy ngón tay khơi ra, từ giấy viết lủng một lỗ gần bằng đồng xu. Một quyển vở học đến ba, bốn môn. Chữ ken dầy từ ngọn đến gốc trang giấy. Cái lề hẹp chừng ba ly cũng bị "ngốn" luôn. Lớn hơn một chút, là tập viết tắt cho lợi giấy, được nhiều chữ. Ngày ấy, thơ lục bát cũng bị bọn học trò quê tôi chép như văn xuôi. Còn nếu chép xuống dòng một câu sáu rồi một câu tám thì "đau" tờ giấy lắm. Trống hai bên không biết làm gì. Vở học xong một năm học, muốn dùng lại một lần nữa thì đem "giặt" bằng nước cơm. Không biết ai đã "sáng kiến" ra kiểu tiết kiệm này. Trước khi giặt phải ngâm ít nhất vài tiếng đồng hồ. Vừa chơi ô ăn quan vừa đợi. Để lâu một tí là đi tong cuốn vở. Giặt vở có kinh nghiệm nhất là thằng Tài con ông Lệ hành nghề bảy đáp (đồ tể). Vở nó giặt lại thường trắng phau. Giấy vẫn cứng chứ không bã ra. Bí quyết của thằng Tài là ngâm vở với nước cơm và nước tro. Rồi dùng một chùm nõn tre cột túm lại làm chổi tẩy đánh tỉ mỉ từng hàng chữ một. Lúc phơi thì "kê" từng tờ bằng nan tre. Để các tờ giấy không dính nhau khi vở khô. "Giặt" vở cũ thành vở mới là một kỳ tích của tuổi thơ nghèo khó. Năm nào cũng vậy, cứ gần đến độ khai giảng là lũ trẻ bọn tôi lại rủ nhau đi chợ Trạm để mua giấy bút. Tiền thì có đứa cha mẹ cho. Có đứa đi cúi, hốt trấu lấy tiền bỏ trong cái bùng binh đất. Toàn là tiền kên (tiền kẽm). Xếp lại rồi lấy vỏ bạc (vỏ trong bao thuốc lá) vấn theo hình trụ thành cọc. Cứ một cọc là mười đồng cho dễ nhớ. Đường đi xa đến bảy tám cây số lại phải đi qua đò giang, sợ rớt tiền tay đứa nào cũng phải nung núc trong túi áo. Mua xong giấy bút vẫn còn rủ nhau đi tha thẩn để ngắm chợ. Hàng hoá cơ man cái gì cũng đẹp. Rất thích mà không có tiền mua. Mấy đồng tiền lẻ trong túi còn để dành ăn bánh đúc và tiền qua đò. Bánh đúc quê đổ trong chén cái, bột gạo trắng tinh. Khi ăn chan một lớp nhân cũng là bột gạo nhưng có khuấy với mỡ heo và gia vị. Rồi lấy cái xẻ tre xẻ chén bánh thành từng miếng nhỏ. Dùng xẻ tre như dùng nĩa nhấc lát bánh lên từ từ rồi cho vào miệng. Thơm. Ngọt. Béo. Bùi. Nhớ một đời. Mua được vở học gói cẩn thận trong túi ni lông, rồi lấy dây chun ràng lại cẩn thận. Qua đò nhỡ có xẩy tay đánh rơi thì vở vẫn không bị ướt.

Những năm tháng ấy, vở gay mà mực cũng gay. Xin mực viết trong lớp học là "chuyện thường ngày ở huyện". Xin không cho thì nhè lúc ra chơi, đương sự đi vệ sinh, "bụp" lấy một ruột mực, viết đến cả ngày hôm sau còn chưa hết. Ghét nhau thời đi học thường hại nhau bằng cách đổ mực vào giấy viết. Cho mực lem ra bỏ ghét. Thiếu mực thì cái khó ló cái khôn. Hái trái mồng tơi vắt vào chén, phơi nắng cho hơi nước bay bớt, chỉ còn cô lại trong lòng chén một phần ba thứ nước tim tím. Cho vào bình mực pha thêm một ít mực rin là có mực viết dài dài. Nhưng chỉ một thời gian, chữ viết mực mồng tơi sẽ bay màu, nhạt đến nhức mắt. Viết đầu học kỳ đến giữa học kỳ đã thấy con chữ nhá nhem. Muốn ôn lại phải dò từng chữ một. Chữ nào nhạt khó thấy thì lấy bút đồ lại cho rõ. Chuyện giấy mực thuở học trò quê nghèo là vậy.

Hôm khai giảng đi mua vở cho con. Nhìn những cuốn vở bìa đẹp, giấy đẹp mà thèm. Giở lòng vở ra giấy trắng tinh, hương bay thơm lừng. Những dòng kẻ xanh xanh chạy đều tăm tắp như những ô mạ mời mọc. Nghĩ đến thời đã qua mà lòng rưng rưng. Không còn được mím môi đẩy bút trên những trang giấy nữa rồi. Bây giờ lại đến lượt con...