← Quay lại trang sách

Mảnh Vườn Xưa Của Ngoại

Sau lần bị té nặng chấn thương cột sống, ngoại phải bỏ quê lên ở với cậu tận Pleiku. Mấy năm trời thuốc thang chữa trị, vết thương có thuyên giảm, nhưng bây giờ muốn đi lại ngoại phải dùng đôi nạng gỗ.

Buổi sáng đầu tiên ở quê nhà sau bao năm xa cách, tôi ngửa mặt thích thú nghe tiếng con chim chìa vôi mang tơ lòng ra hót lảnh lót. Gió thổi từ phía biển mang hơi thở mằn mặn của cánh đồng lúa đang thì con gái. Và nắng, chao ôi cái nắng quê mềm như lụa đổ thành từng vũng vàng sau rặng tre. Chống đôi nạng gỗ ra hàng hiên, ngoại bảo tôi đưa ngoại sang thăm mảnh vườn cũ. Đường đi tắt đến vườn xưa chưa đầy một trăm mét mà sao dài dằng dặc như một đời người. Ngoại lê từng bước một qua những gờ đá, bậc thang...Có chỗ ngoại thả đôi nạng gỗ bíu bằng cả hai tay. Nhìn ngoại vất vả, tôi bảo: "Hay là để con cõng ngoại cho mau". Ngoại cười nặng nhọc: "Để ngoại tập đi cho quen, rồi có sức mà chăm sóc lại ngôi vườn".

Mảnh vườn cũ mấy năm trời thiếu bàn tay ngoại, đổ nát và hoang phế vô cùng. Bờ chè tàu không người chăm sóc, đã ăn lan ra tận chân ruộng. Dơi hoang làm tổ trong những ngọn tre cụt. Cỏ dại mọc lúp xúp, điểm thêm vào sự trống vắng một nỗi u hoài lặng câm. Hàng cau già mấy năm không người làm cỏ, rũ những chiếc tàu úa như bàn tay ngoại xanh xao. Nhìn đâu cũng thấy tai tái như mặt người thiếu máu. Thiếu hơi người những tàu lá chuối cũng không buồn lay, mặt lá gầy guộc những gân xanh. Đứng lặng thinh giữa ngôi vườn cũ đổ nát, tôi nhìn thấy mặt ngoại hoen nước, mái tóc bạc trắng rung rung. Đôi chân tần tật cứ như muốn nhích lên, bước đến một điểm vô hình nào đó trong ký ức. Gió thổi từng đợt lớn, những chiếc lá tre bay vần vũ trên bầu trời...Những chiếc lá như đời ngoại đã gắn liền với mảnh vườn này. Chiến tranh, mất mùa, loạn lạc, đói khát...mảnh vườn là một nhân chứng sống của mấy thế hệ. Đứng yên một chập, ngoại vẫy tay bảo tôi đưa ngoại đến góc vườn nơi có chiếc giếng nước bốn mùa mát rượi và xanh như ngọc. Từ khi ngoại về làm dâu, vườn đã có giếng này. Giếng được xây bằng đá tổ ong - thứ đá càng ngâm lâu trong nước càng cứng lại. Bây giờ bị bỏ hoang không có người dùng nước, lá tre mục rơi dày đan kín mặt giếng. Một phần bờ thành vỡ toác tự khi nào để lộ màu đỏ bậm nhức nhối.

Với bao phụ nữ nông thôn, giếng là người bạn lòng từ thuở chưa có gương soi. Thanh sắc một đời con gái. Ngoại, rồi Mẹ và đến lượt em tôi đã soi vào chiếc giếng này với bao nhiêu buồn vui. Có lúc khóc thầm tức tưởi thì đã có bờ giếng đây là người bạn nhẫn nại tâm tình. Thả đôi nạng gỗ, ngoại bíu tay vào thành giếng, như cố tìm lại thời con gái của mình. Ôi, thời con gái của ngoại - cái thời guốc mộc, quần lĩnh, áo the, răng nhuộm đen rưng rức hạt na, lúc rãnh rỗi lại cù rủ bạn bè chơi chuyền một chuyền hai. Rồi lấy chồng, sinh con đẻ cái, vai ngoại gầy như gió bấc, đòn gánh chín chạng hai vai. Thoắt đó thôi mà đã gần trọn một đời người. Cùng với ngoại thăm mảnh vườn xưa, sao chỉ nghe có tiếng gió thổi rung những tàu lá chuối. Phải chăng vẫn là ngọn gió nồm ấy mát rượi đi qua suốt thời thiếu nữ của ngoại. Rồi cũng ngọn gió ấy lại miên man thổi thêm một lần nữa qua mái tóc ngoại cơ hồ như lau trắng.

Và suốt mấy hôm Tết, chiều nào cũng vậy, ngoại chống nạng lê đến bên cửa sổ sau nhà, đôi mắt hoen gỉ nước, nhìn đăm đăm về phía mảnh vườn xưa....

*

Bỏ Làng Ra.....Phố

Không hiểu sao bạn học khoa Văn của tôi thường là con nhà nghèo và ở nông thôn. Đứa nào ra phố học, tay chân cũng còn đầy vết chai sần. Nhiều năm sống ở phố mà cốt cách thôn dã vẫn cứ còn in đậm trong cái dáng đi tất bật, giọng nói to át sóng át gió...Khóc hay cười đều ồn ào như nhau. Chân đã đi trong dép mà vẫn cứ bấm những đầu ngón như đang đi trong bùn. Còn tay cầm một quyển sách to mà vẫn đánh đồng xa như đang gánh một gánh lúa nặng trên vai. Đứa nào quê ở gần trường thỉnh thoảng lại tọt về nhà, tháng một vài lần. Khi đi vẫn nhớ "mang" theo vài thằng bạn, trước là cho biết nhà còn sau là giúp bạn "cải thiện" cho bỏ những ngày đói dài ở ký túc xá. Chưa hết. Khi lên lại Huế còn bới theo cả một gia sản nhà nông: khoai, sắn, gạo, mắm, ớt, và cả tiền tiêu vặt để "chi viện" cho bạn bè.

Với những cậu bé nông thôn như bọn tôi, "phố" là một khái niệm rực rỡ. Đường lên phố còn xa hơn đường lên mặt trăng. Ở đó cái gì cũng khác, người đông, xe cộ nhiều, ban đêm đèn sáng trưng. Dường như ai cũng mặc đẹp. Cuộc sống no đủ và sung túc lắm. Khác xa cái vòm tối đen nông thôn, quần quật cần lao. Thiếu vở viết thiếu sách đọc, cái gì cũng thiếu. Trò chơi xe thì dùng nguyên chiếc mo cau mà kéo. Còn muốn làm phi công thì trèo lên mái nhà nhảy một cái đụi xuống đống rơm. Có khi lọi tay lọi chân đau đớn suốt cả tuần. Một quả bóng màu, một cuốn sách cổ tích đã rách bìa, một que kem mùa hè được đổi bằng chiếc dép cũ...đều là những niềm vui lớn không gì thay thế được. Đêm đêm, nhìn quầng sáng của ánh đèn đô thị hắt lên nền trời đen thẫm mà khát khao, tự vẽ ra cái viễn cảnh một ngày được ra phố, đi đôi chân trần lên nền nhựa đường nóng bỏng, rồi vào một hiệu ăn đường hoàng gọi một bát phở mà ở quê chưa thấy bao giờ.

Có một con đường hẹp để đám học trò nông thôn ra phố là thi đậu vào đại học. Đây là con đường gian nan, không phải đứa nào cũng đi trọn. Ngày cầm chiếc phong bì đựng giấy báo nhập học, lòng nghe hân hoan với bao nhiêu dệt mộng chắc là từ đây đã rũ sạch chốn thôn dã tối tăm, bùn lầy nước đọng. Những năm tháng điện đóm ở phố còn phập phù, đèn ký túc xá nhợt nhạt nhưng nhìn vẫn sáng gấp trăm lần ngọn đèn dầu hoả ở quê. Mà khi học bài muốn sáng thêm phải lấy tờ giấy bạc trong gói thuốc lá xếp lại làm cái chao chụp lên bóng đèn. Cháy "chao" đèn này, lại đi kiếm "chao" đèn khác. Ở phố sướng nhất là trong mùa mưa gió đi đâu cũng không phải xắn quần lội trong bùn lầy. Nhà ở phố dẫu có nhếch nhác cũng bằng vạn nhà ở quê, phên tre vách nứa, mùa gió bấc cứ run bần bật.

Sống nhiều năm ở phố cho đến khi đã có tuổi. Một hôm vô tình điện tắt, phố xá tối om, chợt nhìn thấy vầng trăng rờ rỡ phía trên tán lá long não, thấy mình dại dột biết bao nhiêu. Có cái gì có thể so sánh được với ánh trăng quê, gió quê, những con đường quê...Đêm trăng, ra đầu ngõ hứng gió nghe lao xao trong đám lá tre non tiếng con Chìa vôi mẹ nựng con ríu rít. Giữa những vòm tối xanh thẫm, ánh trăng đổ lụa lên con đường làng lênh láng một thứ ánh sáng màu ngọc lam. Đó là chưa kể ngày mùa. Làng đông vui như Tết. Người ra đồng tấp nập như trảy hội. Các o thôn nữ gặt lúa, cái đáy lưng ong thon thon nhấp nhỏm. Một phần khuôn mặt trái xoan khuất lấp dưới nón lá, đỏ hồng như trái đào tơ. Xong một ngày gặt lúa dưới nắng chang chang. Chiều xuống, thu vén đồ nhà nông, rồi rủ nhau ra sông, chơi đùa tắm táp cho đến lúc trăng lên thật cao mới chịu về. Nước sông mát lạnh như nước giếng làng, nước máy ở phố không thể nào bì được. Trong giấc ngủ quê, thư thả ngả người trên chiếc chỏng tre êm ái, nghe con chuột sành gọi bạn ngoài ruộng lúa, đâu đó nhà ai giã gạo đêm, tiếng chày nhịp ba đệm vào tiếng ru con tha thiết như một khúc hát vọng phu.

Hôm rồi gặp lại bạn cũ. Đứa nào cũng nhớ quê. Lại đem chuyện "ngày xưa" thôn dã kể để mà đỡ nhớ. Xa từ ấy đến chừ sao vẫn không có chi tiết nào bị lãng quên. Kéo nhau ra phố, thắc thỏm đi tìm trăng. Đi. Đi mãi ra khỏi phố Huế. Chợt thấy ở lưng trời phía Đông chòm sao Con Vịt chấp chới sáng, đang chở trên lưng chiếc mũ Thần Nông như những ngày nào...