Chương 4
Sau đó không bao lâu bạn tôi qua đời vào đúng tuổi 60. Chắc chắn là anh đã mang đi rất nhiều kỷ niệm, giấc mơ có ý nghĩa đến nhà tang lễ, cùng lên giàn hỏa thiêu. “Cát bụi trở về cát bụi, linh hồn quy lại linh hồn” và kỷ niệm, giấc mơ là hạt nhân của linh hồn, gạn lọc qua cuộc sống hiện thực, bóc ra từ bệnh hoạn khổ đau, cuối cùng là một cái gì đó thuộc về bản thân mình còn sót lại. Đó mới thực là vật bồi táng theo anh. Bạn tôi quý mến nó đến mức ky cóp, hà tiện, không dám nói ra cho thế gian biết, sống để bụng, chết mang theo. Tác phẩm của bạn tôi không nhiều, trong số những phim anh lưu lại cho chúng tôi có một bộ mang tựa đề “Nơi bị tình yêu quên lãng”.
Từ trong tủ chui ra, rồi lại chia tay với vùng tam giác ngọc ngà, tôi chỉ còn cách đọc tình yêu và con gái trong sách vở, tiểu thuyết hoặc kịch bản, phần lớn là những nhân vật của quá khứ, giống như hình ảnh khủng long không liên quan gì đến hiện tại. Tình yêu có vẻ đối đầu cùng công cuộc xây dựng xã hội mới. Tất cả các tài liệu văn nghệ tuyên truyền đã đồng thanh tuyên bố trước mọi người rằng tình yêu giữa nam nữ không cùng giai cấp nhất định sẽ đi đến cáo chung, vô bổ, còn nếu cả hai đều là giai cấp cách mạng thì quan hệ nam nữ cũng trở thành quan hệ đồng chí. Đó là một loại quan hệ thuần khiết nhất vượt lên trên mọi quan hệ, là một loại quan hệ cao thượng nhất, bao hàm tất cả các quan hệ giữa con người với nhau, kể cả quan hệ lưỡng tính. Nam nữ sống trong quan hệ ấy, không có đặc trưng gì về giới tính, cả hai đều là “đồng chí cách mạng”, chuyện yêu đương tỏ tình chỉ có thể xuất hiện trước lúc trở thành chủ nhân ông có giác ngộ giai cấp. Sau khi đã giác ngộ giai cấp rồi, dẫu là vợ chồng cũng một mực thảo luận công tác cách mạng, trao đổi tâm đắc, thu hoạch qua học tập chính trị, phê bình và tự phê bình, đừng có mà ngã ngã, khanh khanh, anh anh, em em ngọt ngào. “Tác phong nam nữ” đi liền với “phạm sai lầm”, và một tội danh vô cùng nghiêm trọng chính là “quan hệ nam nữ”, đến như những phạm nhân đi lao động cải tạo cũng xem khinh phần tử “bậy bạ nam nữ”, tóm lại hai chữ “nam nữ” dính lại với nhau là chẳng hay ho gì.
Môi trường cả xã hội là như vậy, làm sao tôi có thể bộc lộ những biểu hiện của “thời thanh xuân”, làm sao kích thích nổi tôi ái mộ, yêu đương hoặc ham muốn tính dục với đàn bà. Ái tình là một loại “tình điệu của giai cấp tiểu tư sản”, ai “làm” cái chuyện đó rất dễ bị gạt sang hàng ngũ giai cấp đối kháng. Bản thân tôi chưa dám nói tới chữ yêu mà đã là tư sản rồi, giá mà yêu đương thật sự thì tình hình sẽ vô cùng phức tạp, có khi còn là phản động. Vả lại, cũng chẳng có bạn gái nào trong lớp dám yêu tôi. Tôi trở thành con người không có chút “tình điệu” nào cả, một người thoát ly “dục vọng tầm thường”. Không chỉ mình tôi mà tình cảm và cuộc sống của người dân Trung Quốc lúc bấy giờ đều bị kỷ luật, tác phong hằn trên cổ áo đồng phục cài chặt đến ngạt thở. Hàng chục triệu bạn trẻ bỏ qua “thời thanh xuân” tiến thẳng vào giai đoạn trung niên, già cả, biểu hiện bên ngoài của người Trung Quốc là ai cũng tỏ ra hướng nội, lặng lẽ, nói năng hành động rất ư cẩn trọng và hầu như đều già trước tuổi.
Quả nhiên hoàn cảnh xã hội phát triển tới mức mà hai chữ “luyến ái” bị đẩy ra khỏi từ điển, thay bằng một cụm từ “tìm đối tượng” rất chăn nuôi, rất sinh vật học. Quá trình giao lưu tình cảm thánh thiện, tâm linh, cõi lòng đã bị tinh giản, dung tục, chỉ là một hành vi phồn thực mà thôi. Bởi vì “tìm đối tượng” chẳng khác gì như “giao phối” trong bầy đàn động vật. Tôi còn nhớ hồi đi lao động cải tạo, lúc ở nông trường chăn ngựa, thả dê, nuôi lợn, mỗi lần con cái động đực quậy phá chuồng trại, ông đội trưởng bèn hạ lệnh cho tôi “đưa chúng nó đi tìm đối tượng”, có nghĩa là đem ra trạm phối giống là xong.
Đấy là cái thời cả Trung Quốc trở thành “nơi bị tình yêu quên lãng”, và với bản thân tôi, tình yêu bất quá cũng chỉ là một thoáng “động tình” mà thôi. Nhưng lúc đó tôi thực sự đã đến “thời thanh xuân” của quá trình sinh lý. Tôi có những đòi hỏi, có những lúc “động tình” mà không tìm ra “đối tượng”. Thôi chỉ còn một cách là vùi đầu vào tiểu thuyết Đông Tây, kim cổ đã bị nhà nước cấm chỉ. Những trang sách nhàu nát, ngả vàng kể chuyện giai nhân thục nữ, vạn kiểu phong tình, nhờ con mắt mà vuốt ve, mân mê tâm linh nữ tính khát vọng. Thoạt đầu tôi cứ tưởng đó chỉ là “sướng con mắt”, sau này mới hiểu hai chữ “dâm ý” rành rành. Vì cả ngày bận rộn “dâm ý” nên những gì nhà trường giảng dạy X + Y = Z, rồi các công thức hóa học tựa như sách trời, tôi chẳng hiểu gì tất, và bài tập vật lý, toán học toàn nộp giấy trắng. Vài năm sau đó Trung Quốc xuất hiện một người nổi tiếng có biệt hiệu “tiên sinh nộp giấy trắng”, tôi đoán anh ta chắc cũng “dâm ý” như tôi.
Nhưng “tiên sinh nộp giấy trắng” may mắn hơn tôi rất nhiều, vì ngu si không làm được bài mà trở thành lớp kế cận cách mạng, người nhận giao ca của lịch sử; còn phần mình, ở nhà trường, tôi đúng là cái bia tập bắn của chính trị. Thời ấy dẫu là trường trung học phổ thông cũng phải triển khai cuộc vận động chính trị “thành khẩn bộc lộ”. Nghe nói đó là một quá trình tất yếu phải kinh qua để cải tạo trí thức, mỗi ngày đều mở hội nghị để học sinh “giao tâm”, trao đổi mọi nỗi niềm trong lòng với lãnh đạo nhà trường. Tôi chẳng rõ lãnh đạo nhà trường cần nhiều “trái tim” như vậy để làm gì, những “trái tim” mà lũ học sinh trung học chúng tôi mới mười mấy tuổi “trao” đưa cho lãnh đạo thật là đơn thuần, non nớt, không thỏa mãn yêu cầu của các vị và do đó họ phải đến nhà các học sinh có thành phần gia đình phức tạp để lấy cho được những “trái tim” rắc rối ấy. Tôi nằm trong danh sách loại học sinh vừa nêu, có điều những học sinh xuất thân từ thành phần bất hảo lại học tập rất tốt, chứ không giống tôi, vì vậy “tiên sinh nộp giấy trắng” như tôi tự nhiên là mục tiêu trọng điểm của vùng trọng điểm.
Tôi rất muốn đem những nội dung “dâm ý” trao cho lãnh đạo, nhưng không dám mở miệng. Đang khi do dự tiến thoái lưỡng nan thì may sao thầy chủ nhiệm lớp tìm tôi để “tâm sự”. Ông gọi tôi lên văn phòng nói về chủ đề “trái tim”, phẩm chất đạo đức mà giai cấp vô sản cần phải có. Thầy chủ nhiệm ôn tồn hỏi tôi, em có biết ở ký túc xá thường xảy ra hiện tượng mất vặt, lúc đôi vớ, khi lọ mực, phong bì, giấy viết thư, con tem, thậm chí là cây kim sợi chỉ... hay không. Tôi bảo, thưa thầy em biết, vì bản thân em đã mất một đôi vớ. Thầy mừng rơn, thế là quá tốt, em đã biết rồi phải không, thôi còn chờ đợi gì nữa, em hãy nhanh chóng bộc lộ thành khẩn với lãnh đạo nhà trường là em đã “lấy” đi. Tôi ngạc nhiên và thưa rằng, sao em lại đi “lấy” đồ đạc của chính mình. Thầy chủ nhiệm giải thích, phải bộc lộ là em đã lấy của các bạn khác cơ. Tôi lắc đầu, em chưa hề lấy cắp đồ đạc của ai cả. Thầy chủ nhiệm có vẻ to tiếng, cậu phải thừa nhận như vậy, cậu sinh ra trong gia đình giai cấp tư sản, từ nhỏ đã mang tật xấu “lấy đồ đạc của người khác”, cậu có thừa nhận, có nhận thức thì tật xấu đó mới có thể sửa đổi triệt để. Tôi cũng cãi lại, thưa thầy từ nhỏ đến nay em chưa hề ăn cắp của ai. Thầy chủ nhiệm hạ giọng, người xuất thân từ thành phần tư sản tự thân đã có tật xấu ấy rồi, một loại tật xấu bẩm sinh, chứ không tự giác, vả lại “lấy cắp”và “ăn cắp” là hai khái niệm khác nhau, một đàng ngẫu nhiên, vô tình, còn đàng kia thường xuyên, cố ý, cậu chỉ “lấy” mà thôi, chứ tại sao lại đi liên hệ với “cắp” cho nó phức tạp ra. Thầy giảng giải rất là vần điệu lớp lang, nhưng tôi vẫn không thông, so với cặp từ ngữ “thanh xuân” và “thời thanh xuân” thì “lấy cắp” và “ăn cắp” còn khó phân biệt hơn nhiều. Sau khi áp đảo tôi về lý, thầy chuyển sang tình, cậu nên nhớ, thừa nhận là có lợi cho mình, cậu có biết chính sách của lãnh đạo là như thế nào không, “khoan hồng với bộc lộ, nghiêm trị với ngoan cố”, chỉ cần cậu nhận thì mọi việc sẽ ổn cả.
Mỗi ngày thầy chủ nhiệm ba lần “tâm sự” với tôi, dọa nạt, uy hiếp, dỗ dành, xoa dịu, thậm chí cầu khẩn nữa, đủ cả; cuối cùng tôi mềm lòng thuận theo ý thầy. Thầy mở sổ, đọc cái gì tôi viết cái đó, thành một tờ sớ dài đến mấy chục thứ gồm tất cả những gì bạn học đã bị đánh cắp và nay tôi thừa nhận từng “lấy”, lấy một cách ngẫu nhiên, vô tình, nhưng vì ngẫu nhiên, vô tình nhiều lần nên chẳng khác gì “ăn cắp”. Lãnh đạo nhà trường hài lòng, xuất thân từ giai cấp tư sản là thế đấy, khó lòng mà giáo dục nên người, phải cho nó đi cải tạo, qua lao động mà sửa chữa thói hư tật xấu. Tôi bị đuổi học vì tội thừa nhận “ăn cắp”, đó là “ích lợi” của thầy chủ nhiệm đã mặc cả ban đầu. 40 năm sau, trường trung học ấy tổ chức lễ kỷ niệm nửa thế kỷ thành lập, người ta biên soạn cuốn “Những cánh chim tung bay”, sưu tập sự tích thành đạt của học sinh sau khi rời khỏi nhà trường. Ban biên tập bình chọn tôi là người thành đạt nhất, yêu cầu tôi có đôi lời cảm tưởng và gửi cho tấm ảnh chân dung. Còn nhớ hồi ấy, lãnh đạo nhà trường đã gọi mẹ tôi tới, để giữa hàng trăm học sinh và giáo chức, nhận mặt thằng con “đầu trộm đuôi cướp” của mình. Đó cũng là một phương pháp nhằm giáo dục cả hai, học sinh lẫn phụ huynh mà thời ấy rất thịnh hành. Mẹ tôi nước mắt lưng tròng nắm chặt lấy tay tôi và khẳng khái nói, tôi tin chắc là con tôi không ăn cắp, dẫu các thầy có dạy nó ăn cắp, nó cũng không học. Bà liếc nhìn lãnh đạo nhà trường, rồi mỉm cười lịch sự, nhưng tỏ ra rất miệt thị và dẫn tôi về nhà.
Vì mẹ, tôi nhất quyết đoạn tuyệt với “dâm ý”, từ đó trên trời, dưới đất, giữa nhân gian, cái gì tôi cũng nghĩ đến, trừ mỗi chuyện đàn bà con gái và “thời thanh xuân” của tôi đã được thể hiện bằng một hình thức khác. Sau khi bị đuổi học không bao lâu, tôi lao đầu vào lưới thép, đó là “Đường thi tam bách thủ”, cái gốc nẩy mầm từ hạt giống “hiểm họa” - Ba trăm áng thơ Đường, đã lớn dần, cường tráng, nở hoa và kết trái trong tôi. Hành vi nguy hiểm ở xã hội thời bấy giờ không phải là ăn trộm ăn cướp mà chính là làm thơ. Tôi xuất thân từ giai cấp tư sản, đã mắc tội “ăn cắp” nay còn thêm tội làm thơ, mà thơ tôi viết không giống như “Thù xướng tập” nhẹ nhàng, uyển chuyển, ngược lại toàn gai góc, châm chọc, ngược dòng. Thật là đáng trách khi tôi cứ đi tìm cái rắc rối cho mình.
Loại hình “thời thanh xuân” chẳng màng tới nữ tính còn gọi là thủy phần bằng “không”. Thực tình mà nói thì phụ nữ, ái tình, vợ chồng, gia đình, những thứ ấy gộp thành dung dịch mềm hóa người đàn ông. Chỉ cần nhỏ lên trái tim họ một giọt là xương cốt rã rời, sức lực biến mất. Song lại có một thực tế phải thừa nhận là khi không có phụ nữ để theo đuổi thì biểu hiện “thời thanh xuân” nơi đàn ông thường là công kích người cùng giới. Đấy cũng chính là điều kiện cần thiết nhằm tự vệ trong thời gian đi lao động cải tạo. Anh không mở to mắt ra, không công kích người ta, thì người ta sẽ công kích anh. Sống giữa một bầy sói, anh cũng phải như con sói tinh ranh, giảo hoạt. Đành rằng cùng đi cải tạo với nhau đều là trí thức mà tuyệt đại đa số là tín đồ của Đường thi Tống từ, từng áo mão xênh xang một thời trong xã hội, phong độ rất là nho nhã, nhưng lúc cán bộ quản giáo tuyên bố các phạm nhân phải theo dõi nhau, tố cáo nhau, phát giác nhau, cộng với nỗi khổ đói cơm, rét áo, lao lực thì bọn họ, trong đó có tôi, dần dần thoái hóa thành nửa người nửa ngợm. Một khi trí thức hàm chứa trong mình 50% súc sinh, lối công kích của họ càng có sách lược và độc địa hơn cả súc sinh chính thức 100%. “Thời thanh xuân” của tôi nhằm đúng lúc tiếp xúc với hạng người nửa phần dã thú, nhưng diễm phúc với tôi là con thú bệnh hoạn, trong trận sống mái “đấu tranh tư tưởng” thường tránh ra rìa. Dù là thiên đường hay địa ngục, dù là thần tiên hay hổ báo, ai có “thanh xuân” người ấy có sức sống. Rồi sau đó, những dã thú già nua, suy lão đấu không nổi với đám trẻ trung đang độ “thanh xuân” đã gục dần nơi mình cải tạo, còn lại đều là răng nanh sắc nhọn, khi cắn ai thì cắn chỗ chí mạng, hiểm nguy. Hôm nay, lúc viết đến đoạn lịch sử này, tay tôi bỗng run cầm cập, không cầm nổi bút.