← Quay lại trang sách

Chương 5

Tôi nhận thấy giờ đây đã giải phóng khỏi sức ép, song nhiều lúc lại buồn, lo và đau đớn, một nỗi khiếp đảm trùm lên tất cả. Tôi không rõ đấy là sự hồi quy của cuộc đời hay “thời thanh xuân” đang dần dần suy lão. Những khi âu lo, sầu não và xót xa như vậy tôi bất giác hoài niệm thuở xưa gan dạ, giữa vòng lưới thép dám một mình xông ra, quần thảo và cuối cùng trói chặt dã thú. Tôi cũng thường hồi tưởng cái thời thoải mái của hai bàn tay trắng, cảm nhận sâu sắc rằng hễ có thêm một cái gì đó là thêm mệt nhọc, phải đem toàn bộ sức mình ra mà bao bọc, chở che.

Từ sau khi biết sử dụng linh hoạt cái xẻng cầm tay, tôi nhận thấy mình không những biết múa bút, mà còn cả ngón nghề công phu vũ lâm, vung kiếm lạnh. Tôi cho rằng lạc thú của “thời thanh xuân” không hoàn toàn chỉ là sự ngưỡng mộ, khát khao người khác giới. Quan trọng hơn chính ở chỗ cứ mỗi ngày phát hiện thêm một thiên phú có trong mình và không ngừng chuyển hóa tiềm năng thành sức mạnh, thành lợi thế. Vùng tam giác mông lung ấy tuy không để lại một ấn tượng gì về xúc giác, nhưng tôi vẫn luôn cảm ơn nàng, người đã khai quật trong tôi một tinh thần mạo hiểm. 13 tuổi tôi đã từng mạo hiểm dám nhảy từ tầng ba xuống đất, thì nay ở cái tuổi 33, ngoài bộ quần áo phạm nhân lao động cải tạo ra, tôi không có gì tất, đó cũng là do tôi vui cùng mạo hiểm. Tình thực mà nói thì sở dĩ tôi không trốn trại, phần lớn là vì cuộc sống của dân thường bên ngoài đâu sánh bằng phạm nhân chúng tôi. Sau này tôi không chỉ một lần lên tiếng tán dương trại cải tạo là nơi dễ kiếm cơm nhất, ở đây an toàn bội phần so với bất cứ chỗ nào. Tôi cám ơn số phận, trong thời buổi nhiễu nhương, xã hội biến động, đã đưa tôi đến cái nơi thích hợp nhất đối với mình.

Một ngày hè năm tôi 33 tuổi, ông đội trưởng đội cải tạo hạ lệnh bảo tôi đi canh cống nước. Đây là mùa vụ, rất cần nước tưới cho tiểu mạch ở vùng Tây Bắc. Bởi vì lúc ấy đang “làm cách mạng”, cho nên cơ quan thủy lợi chẳng ngó ngàng đến kế hoạch phân phối sử dụng nước. Tất cả nông trường, công xã ở lưu vực Hoàng Hà cũng với “khí thế cách mạng” nổi lên tranh giành nước, ai có nhiều thế lực kẻ đó độc chiếm nguồn nước. Trên thành phố người ta đấu đá nhau để đoạt quyền, tranh ghế; còn nông thôn chúng tôi đơn giản hơn là nước và cướp nước. Hàng chục đội sản xuất đã hỗn chiến trên một dòng kênh, cũng băng đảng, cũng phái hệ như xã hội đen Thượng Hải ngày xưa, quyết chiếm cho được cái cống để mở đóng đưa nước về phần đất của mình. Nông trường nơi tôi lao động cải tạo có hàng vạn mẫu ruộng phải lấy nước tưới từ cái cổ chai này, cho nên canh gác cống nước năm ấy đã trở thành nhiệm vụ sinh tử của một cộng đồng. Trước khi tôi lên đường ra trận, ông đội trưởng động viên:

- Phạm nhân hữu phái (người ta thường gọi tôi như vậy và sau này ở đoạn cuối, có một thiếu phụ muốn giúp tôi nhen nhóm lại “thanh xuân”, nhưng do quá khiếp đảm nên giữa chừng tôi bất lực, chị âu yếm đặt cho tôi cái tên “Lão hữu”, nghe thân thiết vô cùng) - anh khỏe hơn mọi người (vì tôi giỏi ăn vụng hơn các phạm nhân khác), lại là “nhị tiến cung” (lần thứ hai đi cải tạo, tuy sự việc ấy chẳng lấy gì làm vinh dự, nhưng sống lâu lên lão làng, có nhiều kinh nghiệm, thành tích nên mới được giao trọng trách). Tôi thấy anh cũng thuộc loại to gan (điều này thì ông đội trưởng thật có nhãn quan, nhìn đúng người đúng vật), anh hãy vì tôi mà chốt cứ (ông đội trưởng nói năng cứ như những nhân vật phản động trong điện ảnh). Kẻ nào đến mở cống cướp nước, hữu phái hãy đánh chết cho tôi (nghĩa là dẫu máu chảy đầu rơi, cũng không được lùi bước, chứ đừng ngộ nhận là ông ta đã “hạ phóng” cái quyền giết người đâu nhé).

Ông đội trưởng giao cho tôi sứ mạng vô cùng quan trọng, thật là “sĩ vi tri kỷ giả tử”. Hào khí xung thiên, tôi chẳng nói chẳng rằng, nghiêm nghị vác xẻng lên đường đi giữa hai hàng phạm nhân đưa tiễn. Trên thực tế nếu không có kẻ nào lăm le cướp nước thì nhiệm vụ “gác cống” cũng như đi an dưỡng, nghỉ ngơi, so với lao động ở nông trường thì thong thả hơn nhiều. Nhưng “nuôi quân ba năm, dùng quân chốc lát”, bản lĩnh dày mỏng, tài trí thấp cao, ruột gan to nhỏ chính là vào lúc huyết chiến giữ nước mới tỏ bày, bộc lộ tất cả. Ông đội trưởng không nói đùa một chút nào, vì nhiều bận máu đào đã chảy đỏ dòng kênh.

Tôi nghỉ ngơi thoải mái đúng hai ngày dưới một gốc cây cạnh cống nước, tha hồ nhâm nhi những ý tứ trình bày trong cuốn sách triết học của tác giả người Đức. Ở nông trường cải tạo, ngoài công việc phu phen tạp dịch, ông đội trưởng còn bắt tôi đọc sách “Mã Ân Liệt Tư Mao” và chỉ được đọc loại sách ấy để giáo dục tinh thần “vì nhân dân phục vụ”. Nói có vẻ dài dòng lôi thôi, ghép cả năm ông vào chung một tựa sách, nhưng thực tế là rất ngắn, thoáng một cái là xong, cũng chỉ biên soạn, trích dẫn đến mức ấy thì quần chúng cách mạng mới đủ chữ mà đọc, dài hơn nữa là gay. Nhưng ngày thứ ba vào lúc nửa đêm, trăng treo đỉnh đầu vằng vặc sáng, bỗng bảy tám thanh niên lực điền kết bè kéo mảng ập tới, thấy chỉ mình tôi ngủ say trên bờ kênh, thằng đầu đảng hét lên một tiếng “tiến”. Tình cảnh lúc này giống hệt như tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung miêu tả trong đoạn “Hoa Sơn luận kiếm”. Bờ kênh biến thành đỉnh núi để “bát đại môn phái” vung gươm tỷ võ. Tôi nắm chặt cái xẻng, từ từ đứng lên rồi dõng dạc: "Thưa bà con, anh em, mấy ngày hôm nay chưa đến lượt bà con, anh em lấy nước mà đang luân phiên cho nông trường chúng tôi. Đêm nay nếu bà con, anh em muốn mở cống dẫn thủy thì hãy xin nộp mạng. Không phải tôi, mà một ai đó trong số bà con, anh em. Bà con, anh em không tin thì chúng ta cứ thử xem sao".

Cả toán bảy tám cái mồm thi nhau chửi, chửi từ tổ tông nhà tôi cho tới lãnh đạo nông trường, giống như tôi và nông trường là cùng huyết thống, giống như trại cải tạo là vườn nhà của ông cha tôi vậy. Bây giờ bảo tôi nhắc lại là họ đã chửi những gì thì tôi đành chịu, không nhớ xuể, nhưng chung quy là mạt sát tôi, phạm nhân lao động cải tạo làm sao mà địch nổi với “đoàn tạo phản” bần nông và trung nông lớp dưới như chúng tao. Tôi cười ngạo mạn, bất kể chúng mày là “đoàn tạo phản” hay gì gì đi nữa thì cũng không bằng cái móng của một tử tù. Chúng mày có biết vì sao ông đội trưởng cử tao đến đây gác cống hay không? Bởi một tháng sau tao sẽ lên đoạn đầu đài, đêm nay chúng mày đến đây, tao chẳng sợ, nếu có chết trong khi đang làm nhiệm vụ thì gia đình tao còn có thể nhận thêm tiền tuất, hiểu không?... Nào xông vào đi, chặt đầu tao cái đã rồi hãy mở cửa cống. Mau lên, còn chần chừ gì nữa! “Đoàn tạo phản” bần nông và trung nông lớp dưới ngơ ngác nhìn nhau. Chúng lẩm bẩm: Không ngờ hôm nay gặp thằng chó đẻ. Nhưng ngay sau đó tên đầu đảng liền trấn an, chúng tao khử mày mà làm gì, đừng có dại đi tìm cái chết, đứng sang một bên, mày mà động đậy là tao ra đòn, sống dở chết dở đó hỡi thằng em. Để chúng tao làm việc của chúng tao, mày xem như chẳng trông thấy gì cả. Đầu đảng chưa dứt lời thì một thanh niên trong bọn, khoảng 20 tuổi là cùng, tranh thủ lướt tới, cúi lưng định mở cửa cống. Tôi hét lên, tao sống cũng như chết, nhưng nay nhắc chúng mày, chúng mày không chặt tao, thì tao vẫn chặt chúng mày. Tao có giết chết một thằng thì người ta cũng không lôi xác tao lên để bắn lần thứ hai. Bà con, anh em hãy đừng theo tôi mà tử nạn vô ích. Đồ chó đẻ mày dám không, tên đầu đảng gầm gừ. Tôi đáp lại, hãy đợi đấy. Điệp khúc “mày dám không” và “hãy đợi đấy” lặp đi lặp lại cả chục lần, tôi và tên đầu đảng như hai con chó sủa oang, càng lúc càng to, càng lúc càng dữ. Đó là cách đàm phán đơn giản nhất trên thế giới này, về sau tìm hiểu mới hay, tất cả những cuộc cãi nhau quốc tế kỹ xảo dù phức tạp đến đâu thì hình thức nguyên thủy cũng chỉ như thế “mày dám không”, “hãy đợi đấy” mà thôi. Thấy tôi không chịu lùi nửa tấc, tên đầu đảng hò la bọn đàn em ào vào cửa cống. Phần mình, tôi lựa thế, tay cầm xẻng, mắt nhìn lên cổ thằng bé, một cái cổ mập ụ hơn cổ lợn và tìm góc độ sao cho “lai như lôi đình thu chấn nộ” kiểu Công Tôn Đại Nương từng múa kiếm và bỗng trong người trào sôi dòng máu nóng thôi thúc thằng con trai phải chiếm đoạt, tính giao nữ giới, nhưng vì ở đây không có ai là đàn bà con gái nên tất cả dồn lên bàn tay, phập một nhát nơi cánh cửa cống, “bãi như giang hải ngưng thanh quang”, lẹ làng tới mức chỉ nghe mỗi tiếng kêu thảm thương “mẹ ôi”, rồi sau đó là máu đỏ lênh láng dưới trăng mờ. “Đoàn tạo phản” bần nông và trung nông lớp dưới nhanh chóng rút lui, cõng thương binh về bệnh viện cấp cứu. Tên đầu đảng quay lại dọa dẫm: “Hãy đợi đấy, hỡi thằng chó đẻ”. Chiến trường giờ đây yên ắng. Tôi xìu xuống như người đàn ông vừa xong một đợt “thanh xuân” và cảm thán, đúng như ai đó đã từng nói, mọi cuộc chiến tranh đều bắt nguồn từ dục vọng của người lãnh đạo.

Sáng hôm sau tôi vội vàng báo cáo lên ông đội trưởng. Ông khen tôi hết lời và bắt đầu chửi “đoàn tạo phản”, chửi đến tổ tông tám đời nhà họ mà không hiểu rằng những bần nông và trung nông lớp dưới kia cũng là “người anh em giai cấp”, cùng một huyết thống với ông. Tôi trở lại vị trí canh cống nước, nhặt ngón tay nạn nhân, giờ đã tím bầm, chôn cất tử tế, nhìn đất nhìn trời và thỏa mãn với sự trào dâng, phát tiết của “thời thanh xuân” không ái tình, không nữ tính vừa mới “động tình” như kiểu tối hôm qua.

Tôi vừa học những trí tuệ cao nhất của loài người và đồng thời cũng làm những việc dã man nhất và nhiều khi còn ác hiểm hơn dã thú, thế mà lúc ấy tôi chẳng hề bị lương tâm cắn rứt, dày vò chút nào. Về sau mới hiểu ra, đấy là dòng chảy chính của một thời lưỡng tính, hai mặt và kỳ lạ thay, bất kỳ mọi lúc mọi nơi tôi đều hòa nhập, xuôi chiều cùng dòng chủ lưu đó. Giờ đây nhớ lại, tôi thật xót xa cho chàng thanh niên đêm hỗn chiến giành và giữ nước. Anh ta trẻ hơn tôi, lúc này anh ta nhiều lắm cũng chưa tới 50, nửa đời người cụt một ngón tay, làm ăn sinh sống đều rất bất tiện. Nhất định là anh ta đã nhiều lần mân mê phần gốc ngón tay còn sót lại và kể với bạn bè nỗi kinh hoàng đêm ấy, nhưng chẳng biết họ tên thằng phạm nhân “chó đẻ” là gì và chẳng biết phải tìm nó ở đâu mà báo thù. Tương tự, dẫu có muốn chuộc tội đền bù chút ít cho nạn nhân, tôi cũng đành bó tay vì tất cả những gì liên quan đến anh đều mù mịt. Hồi ấy chàng thanh niên ấy giống tôi là đang tuổi trẻ, đang “thời thanh xuân”, nhưng khác nhau là một bên được phát tiết, được thỏa mãn thú tính; còn bên kia vừa khiếp đảm vừa hận đời và linh hồn bị tổn thất mà thủ phạm chính là tôi. Thế giới quanh chúng ta thường là như thế. Bao sự vật, bao con người vốn dĩ rất xa nhau, khác biệt, không hề liên quan ràng buộc, bỗng đụng đầu và trở thành đối địch một cách ngẫu nhiên.

Phần tôi, khi hoàn cảnh xã hội và điều kiện cá nhân vừa thay đổi thì liền nhớ lại quá khứ và cảm thấy bất an. Đành rằng xã hội sẽ không còn hại tôi nữa, đành rằng tôi sẽ cố thiện tâm đối đãi với đồng loại, nhưng thói nào tật ấy vẫn cứ bao vây và dễ sợ nhất là lúc “thời thanh xuân” trỗi dậy, loại “thanh xuân” không ái tình, không nữ tính lại thúc giục tôi nói những điều không muốn nói và làm những việc không muốn làm.

Tôi lập xí nghiệp tư nhân hùn vốn đầu tư biến một vùng đổ nát, hoang phế trở nên khu vui chơi giải trí và đặt tên là “Thành phố điện ảnh vô tuyến” cho oai. Tôi đã làm đầy đủ mọi nghĩa vụ tài chính với chính quyền địa phương cũng như giúp đỡ bà con thuộc diện giải tỏa ổn định cuộc sống tại khu mới. “Thành phố điện ảnh vô tuyến” của tôi chính thức mở cửa bán vé cho khán giả vào xem, dần dần thu lãi khiến đám cường hào ác bá mới quanh vùng nóng mặt. Nhân buổi đầu tranh sáng tranh tối của thời kỳ cải cách mở cửa, kinh tế thị trường, lợi dụng khi luật pháp còn chưa hoàn bị, bọn chúng sách động dân đến quậy phá đòi chiếm lại “cổ thành” giống hệt như hồi tranh cướp nước ở dòng kênh. Sáng hôm đó người của chúng ập tới đuổi hết nhân viên bán vé của tôi, ngang thiên thu tiền bỏ túi. Tôi đánh xe đến hiện trường thấy người ta bao vây, biểu tình, hô khẩu hiệu và xem tôi bằng nửa con mắt. Tôi lại cảm thấy dòng máu lạ trào dâng trong người và bỗng nhận ra nhiệt dư “thời thanh xuân” đang nóng dần lên. Ai là người cầm đầu, tôi hét to và cả đám người gan lì như bầy quạ vẫn cười khì, vẫn chơi cái trò chơi không luật lệ. Đây không cần lãnh đạo, đây không cần cầm đầu, một thanh niên ngạo mạn trả lời. Tôi chộp ngay, chính anh là lãnh đạo, chính anh là cầm đầu, hôm nay chúng ta nhận mặt nhau, mai này hành xử thì anh đừng có trách. A lô, tôi rút máy điện thoại di động, giả bộ quát nạt, ra lệnh, chuẩn bị ngay cho tôi, tổng giám đốc, một “đại đội vũ trang”, chờ chỉ thị là hành quân thần tốc đến hiện trường, rõ chưa, rõ. Người thanh niên nọ và bầy quạ của anh ta sợ hãi bởi hai chữ “đại đội” bèn nhát gan khai báo thật, dạ thưa “cấp trên” bảo chúng em quậy phá đại ca. Về bảo với “cấp trên” của các người rằng ông anh đây có sức khai phá vùng “cổ thành” này phồn vinh nhộn nhịp như hôm nay thì cũng đủ mạnh và thừa bản lĩnh khiến kẻ nghịch tặc vong nhân bại sản, hôm nay ta thí cho các người tiền bán vé, về mà ăn nhậu, nhưng ngày mai còn dẫn xác tới đây, hãy xin “cấp trên” mua sẵn cỗ quan tài. Ai cũng biết anh các người đã lao động cải tạo đúng 20 năm, chẳng việc xấu nào mà không nghĩ ra, nói đoạn tôi lên xe rồ máy rời khỏi “Thành phố” của mình. Những lời nói lạnh tanh như máu cá và âm mưu chặt đứt một ngón tay hoàn toàn như nhau, đều là biểu hiện “động tình” của “thời thanh xuân”. Tất nhiên tôi chẳng có “đại đội vũ trang” nào để mà gọi và chẳng dám “vong nhân bại sản” người ta, vì bây giờ đâu có “làm cách mạng” muốn giết ai là giết, nhưng tôi hiểu “lấy độc trị độc”, với những kẻ vi phạm pháp luật thường không sợ cơ quan chấp pháp mà lại rất gờm trước các tay anh chị cao thủ hơn mình. Sáng hôm sau người của tôi vào ca bình thường, hầu như chẳng có gì xảy ra, “Thành phố” bình an và vui vẻ làm ăn.

Có những người đàn ông ham gái, lại có loại chỉ ưa vật lộn cùng giới tính. Từ ngày đoạn tuyệt thói hư “dâm ý”, tôi thuộc loại thứ hai và nhận ra rằng lạc thú của “thời thanh xuân” còn bao gồm cả “chí phấn đấu hơn người”. Cuộc đời lao động cải tạo nhiều năm không dạy cho tôi một trò chơi giải trí não cả, sống đơn điệu, buồn tẻ, không cờ bạc, xoa mạt chược, hay đánh “gôn” mà chỉ có hai kiểu chơi, “tâm nhãn” và “vận mệnh”, thật là kỳ quái. Cuối cùng thì cả xã hội kinh tế thị trường của Trung Quốc cũng đang vào “thời thanh xuân”, nhìn trước ngó sau, lao tâm khổ tứ, thì thấy rằng nó rất cần đấu chí, nó rất cần hoạt lực, và rất cần một tinh thần nghênh chiến. Trời ơi, “xuất thủy tài khán lưỡng thối nê”, rút chân ra khỏi nước mới thấy đã lấm bùn, ai viết, ai ca, ai nghĩ mà hay đến thế.

“Thời thanh xuân” của tôi không tình yêu, không đàn bà, và cũng không ham muốn quan hệ nhục cảm với phụ nữ. Cám ơn Trời xanh cao vợi, Người đã an ủi con hay ra tay dập tắt ngọn lửa dục niệm đang âm ỉ cháy nơi lòng con mà dàn dựng một màn trình diễn “sinh hoạt vợ chồng”. Tôi buộc phải xem và bỗng tiêu tan bao mơ tưởng đối với loại “sinh hoạt” này, khiến tôi nhận thấy tính giao cùng nữ giới là công việc hết sức vô nghĩa nên cả đời xa lánh và lãnh đạm với nó.

Cuối những năm 60, sau sự kiện chặt đứt ngón tay một thanh niên nông dân, tôi được phóng thích, trả tự do, mãn hạn cải tạo, chuyển sang lao động kiếm sống, từ nông trường lao động cải tạo bước qua một cây cầu độc mộc bắc trên dòng kênh là tới nông trường công tác. Hai nông trường gần nhau trong gang tấc, chó sủa gà kêu đều có thể vọng qua truyền lại, nó tượng trưng cho cái thời hễ lơ đãng tí chút là bị tống đi cải tạo như chơi. Phạm nhân lao động cải tạo được phóng thích, trả tự do nào đã thoải mái gì, vẫn phải mang trên mình năm chữ “lao cải thích phỏng phạm” giống như người nô lệ ngày xưa bị đóng dấu trên trán, nghĩa là vĩnh viễn không bao giờ xóa nổi cái nghiệp “phạm”, dẫu đi đến cùng trời cuối đất thiên hạ đều có thể nhận biết. Hôm phóng thích, cán bộ quản giáo đã ghi nhận xét rất tốt cho tôi, ông viết: “Nhận tội phục pháp, tuân thủ giám quy, tích cực cải tạo, thế giới quan và lao động quan đã chuyển biến rõ rệt...” thế là ông cán bộ đã cố tình bỏ lơ tội ác chặt đứt ngón tay một nông dân do tôi gây nên ngay trong thời gian cải tạo. Tôi những tưởng cầm bản nhận xét này mà đi xin việc thì hoàn toàn đủ tư cách làm anh công nhân nông nghiệp chính thức, nhưng thực tế thì trong xã hội sẵn có vạn vạn người cũng “thế giới quan, lao động quan đều chuyển biến”, họ còn hơn tôi ở trạng ngữ “triệt để”, chứ “rõ rệt” là cái thá gì. Đại đa số trong bọn họ tùy hoàn cảnh khác nhau mà gặp phải những tội trạng với dạng thức muôn hình muôn vẻ, đúng như chủ trương của “nguyên tội luận” Cơ Đốc giáo, con người sinh ra là đã đắc tội rồi. Tôi sở dĩ “nhị tiến cung”, hai lần vào ra trại cải tạo, là do “phong trào giáo dục xã hội chủ nghĩa” đụng tới, ba năm sau lại xáp mặt với “văn cách”. Không ngờ con người khó dạy bảo đến thế. Người phạm tội tham gia phong trào chính trị ngày càng nhiều, vậy nên có trở thành công nhân nông nghiệp chính thức hay không thì cũng chẳng hề gì, bởi mọi người đều là phạm nhân cả.

Nhưng dù thế nào đi nữa, “phạm nhân lao động cải tạo được phóng thích” vẫn thấp hơn nhân dân một bậc và do đó Ủy ban cách mạng nông trường đã liệt tôi vào lực lượng lao động bị “đội chuyên chính quần chúng cách mạng” quản chế. Đây là một tổ chức có ở khắp nơi, cơ quan, đơn vị, nông trường, thậm chí cả đường phố nữa, là một hình thức trại cải tạo quy mô nhỏ, quần chúng cách mạng có thể tùy hứng kéo lãnh đạo của mình ra đấu tố rồi chụp cho cái mũ “đầu trâu mặt ngựa”, bị tập trung quản chế và cưỡng bức lao động. Căn bệnh của “văn cách” mười năm là đẩy quần chúng lên cao hơn tất cả, trở thành lực lượng vô thiên vô pháp, căn bệnh đó thấm vào gen tinh thần của cả dân tộc, di truyền cho hậu thế, khiến hôm nay nhiều cán bộ có quyền thế hóa thân là ác bá một vùng, còn quần chúng tay không đóng vai vô lại.

“Đầu trâu mặt ngựa” gồm đủ loại, từ cao quan hiển hách cho tới thứ dân bình thường. Dù địa vị phẩm hàm xưa kia chênh lệch như thế nào nhưng đã đến đây thì nhất luật đều là kẻ xấu, cùng một đẳng cấp. Có bị đội chuyên chính quần chúng cách mạng quản chế, tôi mới hiểu là tầng lớp phạm nhân lao động cải tạo được phóng thích như chúng tôi còn ưu việt hơn cái đám “đầu trâu mặt ngựa” kia. Tuy trước đây là phần tử hữu phái khét tiếng, nhưng vì hồi đầu “văn cách” lọt lưới không bị lôi ra đấu tố, quy phái hệ, cho nên giờ đây tôi may mắn thuộc tầng lớp trung gian và được gọi là “hổ chết”. Hổ đã chết thì tất nhiên là không bị “đào mồ lôi xác” lên mà đánh, trọng điểm đấu đá, hành hạ của quần chúng cách mạng chính là bầy “hổ sống”. Tôi có sức khỏe, tư tưởng nói chung là tạm ổn, không bị liên lụy gia đình, kỹ năng lao động thành thạo hơn nhiều so với lũ “hổ sống” lâu nay chỉ ngồi văn phòng chực ăn thịt người, cho nên ai ai cũng phải nể. Lãnh đạo nông trường giao nhiệm vụ cho tôi chỉ huy hơn 20 con “hổ sống” ngày ngày đi lao động.

Nhân vật mà tôi sẽ kể dưới đây là một người đàn ông, kỹ thuật viên nông trường, sinh viên nông dân, hạt giống đỏ, thuộc loại đẻ ra là để làm cán bộ. Nhưng không may, vì hồi đầu “văn cách” đứng sai đội hình, loạng quạng thế nào đó mà lại bị quy thành “đầu trâu mặt ngựa” nên nay tống khứ cho quần chúng chuyên chính. Thoạt đầu tôi không rõ “đứng sai đội hình” là tội trạng gì, sau đó một lão “hổ sống” khác kể rằng, hắn là “kẻ hai mặt”, lúc đứng bên phe này, khi nhảy sang phái kia, ai cũng bảo hắn phản bội. Sau một thời gian tiếp xúc, chỉ huy “kẻ hai mặt”, tôi mới rõ hắn chẳng có tội tình gì ngoài cái tật vì quá nhiệt tình với cách mạng mà khiến thiên hạ ghét. Lúc nói chuyện thì nước bọt văng tung tóe, riêng khoản này đã khiến tôi không ưa hắn, lại thêm làm lụng nhác nhớn vô cùng. “Kẻ hai mặt” trở thành đối tượng trách cứ của tôi. Ngày xưa còn lao động cải tạo chẳng có dịp để trách cứ ai, nay cấp trên giao cho chút quyền chỉ huy bọn “hổ sống”, không quát nạt kể cũng phụ lòng các vị. Vả lại có quát nạt người khác mới thể hiện là mình cao hơn một bậc, chả trách mà “quần chúng cách mạng” thường rất thích chống nạnh và vênh mặt với những ai “phi cách mạng”.

Làm thủ lĩnh lũ “đầu trâu mặt ngựa” được vài tháng, tôi càng cảm nhận ra mình đã đặt chân vào lãnh địa ưu ái của xã hội. Thứ nhất là mình cũng được gọi là lãnh đạo. Thứ hai là lại đi lãnh đạo đám người từng một thời lãnh đạo bàn dân thiên hạ, và thế là từ một anh công nhân nông nghiệp “tạm tuyển” chưa gột sạch dấu ấn “phạm nhân”, tôi nhảy phóc lên chức quan, làm ông cán bộ và bắt đầu dương dương tự đắc. Về sau không rõ tình hình đã biến chuyển ra sao mà những người nguyên là “quần chúng cách mạng” nhận thấy đấu đá lũ “đầu trâu mặt ngựa” chẳng nên công cán gì nên trọng điểm đã chuyển sang chính mình và thời đó gọi là “quần chúng đấu quần chúng”. Các phe phái “quần chúng cách mạng” ở nông trường tuốt gươm rút giáo thề sống mái với nhau. Cấp trên bận “nắm cách mạng”, nhiệm vụ “đẩy mạnh sản xuất” đành phó thác cho “đầu trâu mặt ngựa” đảm trách, quyền lực chỉ huy hiện trường bỗng rơi vào tay tôi. Những độc tố của “chủ nghĩa nhân đạo giai cấp tư sản” bị tiêm nhiễm từ khi còn bé đã khiến căn bệnh cũ tái phát trong tôi. Nhìn đám “đầu trâu mặt ngựa” bị quản chế nghiêm ngặt, bị đấu tố sứt đầu mẻ trán, xa vợ lìa con, tôi thấy xót thương. Họ còn tội nghiệp hơn cả phạm nhân lao động cải tạo chúng tôi ngày trước, vì thế nên tôi đã bí mật cho phép “Phản bội” và “Đặc vụ” - hai con “hổ sống” tuổi gần 60, bệnh tật khắp người, về thăm lại người thân sau mấy năm trời biền biệt. Không cho họ đi thì thật không đành, điều này chứng tỏ tôi chưa cải tạo tới mức “thay da đổi thịt”, ông đội trưởng nhận xét đánh giá tôi như dạo nọ là không đúng.

Ngày hôm ấy tôi và “Kẻ hai mặt” cùng đi cắt cỏ cho ngựa, quá trưa thì mắc mưa, phải chui vào một căn nhà đất rách nát tạm trú. Mưa càng lúc càng to, mịt mù tăm tối mà cả hai thì bụng đói cồn cào. May sao ở đó còn sót lại bao đậu tương làm thức ăn nuôi ngựa, tuy đã sặc mùi ẩm mốc, nhưng chúng tôi vẫn bốc nhai ngon lành, vừa ăn vừa nhìn mưa giết thời gian. Khoảng nửa giờ sau một người đàn bà đội mưa, ướt đầm bỗng xuất hiện trước cửa, hình hài như con ma khiến tôi sợ hãi, nhưng “Kẻ hai mặt” thì sung sướng vô cùng. Hắn hét lên, sao mình biết mà tới được đây. Tôi đến đằng ấy, người ta bảo ông ở bên này, “đằng ấy” là một chỗ làm việc khác do đội chuyên chính quần chúng cách mạng quản chế, còn “người ta” chính là lũ “đầu trâu mặt ngựa” nọ. Tôi chưa kịp hoàn hồn thì “Kẻ hai mặt” đã kéo người đàn bà vào trong nhà, thôi thì vuốt tóc, xoa đầu, lau mình cho thị, nước bắn tung tóe lên cả đầu tôi. Tôi tưởng đó là con gái của lão, vì còn quá trẻ, đâu mới 20. “Kẻ hai mặt” phải thanh minh, thưa cán bộ, vợ tôi đó và tự nhiên cởi áo vắt khô cho cô gái, lồ lộ phần ngực nhô cao, trắng nõn, chính giữa là một hào sâu, chẳng rõ vì sao khi liếc trộm con hào ấy, tôi vô cùng hốt hoảng và nhắm mắt lại. Vợ chồng gì mà chênh lệch nhau dữ thế “Anh hai...”, dạ thưa, hồi đó trừ cán bộ lớn ra, nhân dân “tìm đối tượng” đều có tuổi tác tương đương “giao phối”. Hắn cười với tôi và bảo rằng cô ả là nông dân, vì vậy cuộc vấn đáp đành kết thúc, nhưng tôi chẳng có cơ sở nào để xác minh họ là một “cặp” vợ chồng và bản thân mình đã phạm kỷ luật của đội chuyên chính quần chúng cách mạng vì cho phép “đầu trâu mặt ngựa” gặp gỡ người nhà. Tôi lùi về một góc. Ngoài trời vẫn mưa như trút nước, trong lỏm bỏm tiếng mưa rơi, tôi lắng nghẹ họ nói chuyện gia đình. Càng nói càng mặn mà, quyến luyến, bỗng “Kẻ hai mặt” tiến về phía tôi cầu khẩn: dạ thưa cán bộ, cho chúng em “sinh hoạt vợ chồng” một cái. Dạ đã xa nhau phải đến hai ba năm rồi. Tôi nhìn hắn và bắt gặp thần sắc cùng ánh mắt tội nghiệp đáng thương chưa từng thấy nơi “Kẻ hai mặt”. Tôi không hiểu ý nghĩa của cụm từ “sinh hoạt vợ chồng”. Nhẽ nào lão “hổ sống” này muốn trốn trại theo người thiếu phụ về nhà. Tôi vọng nhìn cô gái nông thôn đôi má cứ ửng dần lên và cuối cùng rực thắm. Ả cúi đầu, bứt tay và tỏ ra xấu hổ, ngượng ngùng. Khi ấy tôi mới hiểu tất cả và không nhịn được cười. Tôi không cười họ có nhu cầu giao phối mà cười chính mình vì hôm nay vừa học thêm một từ nghe rất thanh tao nhưng chung quy cũng chỉ là cái chuyện đó. Ở bên nông trường cải tạo người ta nói có vẻ hơi thô lỗ rằng “ngủ với nhau”, như trong “AQ chính truyện” gọi là “khốn giác”, còn bây giờ thì màu mè khoa học một tí, “tính giao”. Với tôi vì thiên về văn thơ cổ điển nên thường nghe quen “vân vũ”, “hành phòng”, và ở đại đa số tiểu thuyết thì là “sự tất”, hóa ra “sự tất” chính là “sinh hoạt vợ chồng”.

Theo phép lịch sự, đã cho họ “sinh hoạt”, tôi ắt phải lánh mặt, nhưng bây giờ biết trốn nơi đâu? “Kẻ hai mặt” khẩn khoản, vô lẽ lại để cán bộ dầm mưa, thôi thì cán bộ cứ nhìn ra ngoài trời là được. Tôi vừa quay đầu “lánh mặt” ngắm mưa thì đằng sau nơi mấy bao gai phát ra tiếng lạo xạo, cô gái khẽ rên, cố giữ miệng mà vẫn bật ra âm thanh “ư hử”, khiến tôi khó chịu. Những bao gai kia sắc nhọn như dao, tội người thiếu nữ vượt bao dặm tìm chồng, không khéo lại mang thương tật trở về quê, biết mà khổ ải đến nhường này thì tôi đã không cho họ “sinh hoạt”. Nhưng không đợi tôi đủ thời gian để phân biệt đằng xa kia trong mịt mù mưa dội là bóng người hay một gốc cây thì bỗng nghe cô gái rú lên, còn “Kẻ hai mặt” thở dài, lăn đùng và chạm vào lưng tôi. Xong rồi, thưa cán bộ, hắn nói với vẻ vô cùng mệt nhọc như đang kéo một cỗ xe chất đầy leo dốc.

Tôi lại cười, thời gian “sinh hoạt vợ chồng” cũng ngắn ngủi như ở trạm thụ tinh nông trường. Chả trách mà tiểu thuyết cũ miêu tả chỉ trong nháy mắt là “sự tất”, khiến tôi mơ hồ “sự” gì mà “tất” nhanh đến thế. Lại như “vân vũ” thơ xưa “dục tiên dục tử”, mới một hai phút mà đã tiên bay, thần biến thì phỏng có ý nghĩ gì, và còn chết, chết trong thời khắc ấy, thật nguy hiểm biết bao.

Từ bấy, là “hành phòng”, là “ngủ với nhau”, là “tính giao”, là “sinh hoạt vợ chồng”, hay gì gì đi nữa, những từ ngữ đó đối với tôi đều thô lỗ và vô vị tột cùng.