← Quay lại trang sách

Chương 10

Đây là Ada và Charlie trên giường một năm sau.

Charlie béo tốt như một con hải cẩu với cái bụng mập, dài; con cu ỉu xìu đỏ hồng dựa vào cái đùi trắng, mập. Đó là sáng thứ Bảy, và mỗi cơn gió lạc, mỗi chuyển động của Ada bên dưới lớp mền bông đều có thể làm ông hứng lên, cho đến khi đạt đến một góc độ - chẳng hạn năm mươi độ - được ông đánh giá là vừa nghiêm khắc vừa tử tế. Ông suy ngẫm về nó một lát - bốn mươi có thể được coi là bất tiện, bất kỳ mức thấp hơn nào chỉ là lỗi lầm ngớ ngẩn và mắc cỡ - và rồi nó là một điều ông phải chia sẻ, vấn đề về góc độ này. Ông chui ngược trở vào dưới lớp chăn mền tới bắp đùi khẳng khiu của Ada thế là bà bật cười và nhấc đầu gối lên. Họ đã làm chuyện này quá thường xuyên trong mấy giờ vừa qua đến độ khó xác định sự khác biệt giữa bên ngoài và bên trong. Lại còn sự khác biệt giữa mền đắp và không khí trong phòng, giữa quần áo của họ và bàn tay của họ: mọi thứ có vẻ mơn trớn họ. Họ là một bó dây thần kinh, bị chọc ngứa ở các đầu dây. Họ đang bào mòn nhau; cả hai ngạc nhiên bởi độ mỏng của lớp da bắt gặp ngay ở đó; họ có thể cận kề nhau đến độ nào, máu gần bên máu, đến nỗi, sau đó, sự ngọ nguậy của người này bên trong người kia có thể là một trò đùa, hoặc một nhịp đập - tiếng đập của trái tim ai khác trong mạch máu của ta.

Dĩ nhiên Charlie, ở tuổi ba mươi ba, đủ hiểu biết để không kết thúc bên trong Ada thường xuyên hơn mức ông có thể dừng được (dù đôi khi, quả thực, ông hoàn toàn không dừng được), và vì thế đến chặng cuối ông kéo mình ra để nằm soài ra như một người chết đuối, ứa nước biển trên cầu cảng. Và Ada tê rát đi không chỉ vì tình yêu mà còn vì chất giấm mà bà dùng trong chiếc túi Pháp đặc biệt của bà; một món quà của Charlie - quá kỳ quặc và tinh quái - sau khi họ hứa hôn. Họ là tình nhân. Cho dù đã cưới nhau họ vẫn là tình nhân. Không nói chuyện về con cái: không có gì xảy ra trong đêm tối. Thời gian tìm hiểu của họ là một sự vụ mãnh liệt; việc hứa hôn, có vẻ thế, chỉ là một cái cớ để kéo dài sự ngọt ngào, vì vậy đến lúc chui được vào giữa những chăn mền hợp pháp họ đã mệt lử vì toàn bộ sự vụ và chờ đợi đêm tân hôn của họ như chờ đợi cuộc tàn phá cuối cùng. Ada cởi quần áo cạnh giường với vẻ một phụ nữ sắp đi tắm, Charlie nheo mắt dưới ánh đèn để lên dây đồng hồ của ông. Sau đó, với một cuộc giao hoan bất ngờ, khủng khiếp - mắt Ada mở to thô lố - họ thấy rốt cuộc họ có quá nhiều thứ cần phải học.

“Đừng lo.” Cứ như Charlie chẳng nói gì khác từ ngày họ gặp nhau. “Đừng lo, em sẽ chẳng đau đớn gì đâu.”

Ada không biết tại sao bà tin cậy ông, nhưng bà tin. Và bà đúng. Và tự nó là một kiểu chiến thắng đối với bà; Ada gầy nhom, thiết thực, với tính cảnh giác của bà. Bà tin ông lập tức, và bà không bao giờ ngừng tin ông, cả khi, có lúc, ông đưa những nhân viên sai áp đến nhà. Bây giờ, vào sáng thứ Bảy này, bà cầm tay ông lên và đặt nó lên xương mu được dùng quá nhiều của bà, để sức nặng và hơi ấm của nó, ít nhiều, sẽ khiến bà thoải mái lại. Mỗi thứ làm đau một chút. Họ vẫn chưa giỏi lắm về khoản này. Họ có những báo hiệu lớn lao về những gì sắp đến.

Chiếc giường bằng gỗ dái ngựa, chạm trổ hai bông hoa nhỏ gắn trên vòng cung trên tấm ván đầu giường. Nó hơi mềm - buộc đôi tình nhân, những khi cần nghiền quá dữ, phải lăn xuống sàn nhà. Nhưng quả là lạc thú khi nằm lên đó và Ada đã tiếp quản lâu đài của mình: cái giường của bà, với những chai lọ và thuốc men của bà trong chiếc tủ ngăn kéo, và tất cả mọi thứ của bà, sách vở và bữa điểm tâm, quanh bà. Bà đã lấy chồng. Bà có thể sống trên chiếc giường này. Bà có thể ăn trên đó, đọc trên đó và nằm lì trên đó một cách đều đặn.

Và nếu chiếc giường là một lâu đài với bà, thì Charlie là vị khách mập tuyệt vời của bà. Trên nền lớp mền bông màu hồng phấn, mớ lông vàng hoe của ông ngời ấm lên. Nó chạy xuống dưới và cuộn lại quanh các vùng trũng trên thân thể ông. Nó dừng lại thành một hàng quanh mỗi cổ chân trước khi nhảy vọt, giống như một ngọn lửa thoát đi, thành từng túm nhỏ từ ngón chân này sang ngón chân kia. Lông màu vàng chạy dọc theo bụng ông. Nó lơ phơ thành từng chùm nhỏ bên dưới mỗi đầu vú và bờm xờm thò ra dưới nách. Ada không bao giờ chán nó, cái cách nó chảy thành dòng, giống như ông vừa tắm xong - và cái chuyện cười ngay đỉnh, nơi đầu ông đã được gội sạch. Bởi vì Charlie rất hói.

Nhìn loại người như Charlie thì thấy như ông nên đội mũ quả dưa, nhưng Charlie rất tự hào về cái đầu hói của mình - ông thường đặt tôi ngồi trên đùi, khi tôi còn bé, để xoa đầu ông - và ông thường đi đầu trần, để nó được hưởng con gió hiu hiu. Tuy vậy, ông cũng ưa một cái khăn quàng cổ, và có thói quen gầm gừ và hắng giọng, cũng như vỗ nhẹ ngực, quấn lại khăn quàng, và sửa đi ve lại bâu áo khoác lông lạc đà của ông. Charlie hiếm khi không mặc áo khoác. Ông choán đầy căn phòng, theo một cách luôn luôn gây ra khó hiểu bởi vì, tuy ông tạo ấn tượng là người nhỏ con - do chứng hói, hoặc có lẽ vẻ múp míp ở cặp đùi ông - nhưng thực ra ông khá to lớn và việc ông từ chối ở yên một chỗ có lẽ xuất phát từ mối ưu tư rằng ông sẽ không vừa khớp. Charlie mãi chỉ tạm ghé qua. Ông không bao giờ dùng một tách trà. Có vẻ như ông có thông tin cần truyền đạt tuy rằng, sau khi ông đã đi, thật khó biết đó là thông tin gì. Giọng ông trầm, và khẩn cấp, và rất dễ chịu. Ông làm cho người ta cảm thấy ấm áp và không chắc chắn, như thể họ có lẽ đã bị lừa - nhưng lừa mất cái gì? Họ nhìn xuống để kiểm tra đôi tay họ nhưng không có gì bị lấy mất, chẳng có gì ở đó để lấy. Nên ông không được yêu thích vì điều đó - không hẳn thế. Sự thu hút của Charlie hoàn toàn vô bổ. Và không ai biết ông từ đâu đến.

Spillane là một cái tên vùng Kerry, nhưng giọng của ông là giọng Anh, với chút hơi hướng vùng Clare, và tất cả được Dublin hóa. Chắc chắn rằng, với những nguyên âm bị làm méo mó đi, Charlie muốn hòa đồng - trừ khi ông muốn nổi bật, theo cách nào đó. Tuy vậy, vẫn không ai tin một lời nào ông nói. Bản thân tôi cũng nhớ mình không hề tin ông, ngay ở tuổi lên tám.

Có chuyện gì đó về một con ngựa (luôn luôn có một con ngựa). Có câu chuyện về Huân tước Leinster, và những câu chuyện bất tận về khách sạn Shelboume, và câu chuyện Khởi nghĩa 1916* đôi khi được nhắc đến, nhưng cuối cùng không bao giờ được kể. “A, phải rồi, ông Spillane,” người đàn ông trong cửa hàng nói, nháy mắt với tôi qua quầy, “hẳn là từ hồi những Ngày Vinh quang.”

Cuộc khởi nghĩa của Ireland nhằm lật đổ Anh và thành lập Cộng hòa Ireland.

Charlie đã mua cho tôi cái gì? Một thứ rượu trái cây. Dĩ nhiên rồi.

Tôi nhớ ông nhất là qua làn da tôi. Niềm thích thú lớn dần khi ông cúi xuống thì thầm, độ cứng của hàm râu ông và cảm giác trơn láng của vải tuýt. Ông chọc ta cười với ý tưởng rằng có thứ gì đó giấu trong tay hoặc túi ông - nhưng mà chẳng có gì cả. Charlie chơi trò Tìm Con Đầm * mà không có con đầm nào cả: chẳng qua ông thích trò hoa mỹ, và sau trò hoa mỹ ông thích bỏ đi.

Tìm Con Đầm (Find the Lady): trò chơi giống “tráo bài ba lá” ở ta, trong đó chủ trò hoán vị trí ba lá bài rất nhanh, người chơi phải đoán được lá bài nào trong đó là con đầm (lá Q).

Charlie tội nghiệp. Xác ông là thi hài đầu tiên tôi từng nhìn thấy; to lớn và yên lặng dưới lớp chăn màu hồng phấn của Ada. Đó là lý do tại sao thật là báng bổ khi viết về đêm tân hôn của họ trên chính chiếc giường này - dù sự báng bổ có vẻ như là công việc của tôi ở đây.

Tôi những mong mình có thể nhớ lại cách ông chết - dù với một tiếng động trong đêm, hay một sự im lặng kéo dài vào giữa buổi chiều. Nó hẳn đã xảy ra khi chúng tôi đang ở đó. Thậm chí đó có thể là lý do khiến chúng tôi phải về nhà. Nhưng những chi tiết và ngày tháng như thế thì quá khủng khiếp không thể ghi nhớ đối với một đứa trẻ, có lẽ vậy, bởi vì đầu óc tôi đã cố quên chúng - một cách trọn vẹn. Tôi chỉ nhớ được những gì diễn ra sau đó, cố không bật cười khi chúng tôi được đưa lên phòng.

Đó hẳn là tháng Hai năm 1968. Tôi mới tám tuổi, Liam chín, và chúng tôi đi lên để “tạm biệt” Charlie. Tôi nghĩ mình biết, thậm chí khi mới tám tuổi, rằng ta có thể nói tạm biệt bao nhiêu cũng được, nhưng khi ai đó đã chết họ sẽ không nói được gì đáp trả, vì vậy Liam phải nắm cứng cánh tay tôi mà dẫn lên qua những người láng giềng đang đọc kinh mân côi trên cầu thang. Trí nhớ của tôi ghi nhận tất cả bọn họ đều quàng khăn; cái lưng của Ada nhô dần lên trước mặt chúng tôi bó chặt trong áo nịt lụa đen. Nhưng đây là năm 1968: hẳn là có những khăn trùm đầu với hoa văn và áo khoác nút to có mùi mưa. Ada chắc mặc bộ đồ vải xanh nước biển có viền trắng của bà, vốn xuất hiện trong mọi dịp, với áo khoác ngắn màu xanh biển đồng bộ và đội một chiếc mũ trông giống như bong bóng bằng nỉ, đấm bẹp một bên.

Bàn chân của những láng giềng thò ra khá xa từ bậc thang nơi họ quỳ: giày của họ ve vẩy trong không khí, và có cái gì đó vướng víu và trục trặc ở cái thang thứ hai này, nó được làm bằng những xương ống chân mặc quần tất, gây khó khăn cho cái cầu thang mà chúng tôi đang cố leo lên.

Một phụ nữ đang cầu nguyện rất lớn tiếng trên lối trở xuống. Bà ta thấy tôi cười rúc rích với Liam liền trợn mắt buồn rầu, tựa như có một số điều hơn cả sự khiển trách. Tôi nhớ điều đó, được thôi; cảm giác được diễn tả chậm của việc có đầu óc lệch lạc và không thể thay đổi. Rồi tôi nhận ra mình không muốn đi vào phòng của ông bà ngoại tôi. Không muốn chút nào.

Thêm vài người nữa quỳ chen chúc ở đoạn cầu thang thứ hai, và sau đó, qua cánh cửa mở, tôi thấy đầu giường và khối lồi lõm cứng ngắc là đôi bàn chân của Charlie. Tôi nhớ độ thẳng của đôi chân ông khi lộ ra qua khung cửa mở rộng, chóp u đầu gối nhỏ nhắn dễ sợ của ông, rồi đoạn lượn nhẹ nhàng của lớp mền bông trên cái bụng bự quá mức của ông. Đôi tay ông đặt trên ngực, đan lại, và tự mãn, được quấn trong chuỗi tràng hạt.

Xâu chuỗi này có vẻ quá chặt, có vẻ như chúng đang thít chặt vào da thịt ông. Những thủ tục nghiêm nhặt nho nhỏ vào phút cuối này; một kiểu trả thù ông, vì đã chết.

Ada nhìn để kiểm tra chúng tôi sau lưng bà và sau đó bước tránh qua để chúng tôi nhìn rõ hơn. Đó là cái cảnh mà tôi không muốn nhìn.

Charlie quả thực thích ra đi.

“Tạm biệt! Tạm biệt!” Ta không bao giờ biết ông đi đâu. Ông bỏ đi trong sự ngột ngạt của những lời giải thích vốn chẳng giải thích gì cả. Vì vậy, rốt cuộc, Ada được chứng tỏ là đúng - ông là một người khó chịu bậc nhất. Ta có thể thấy qua cách bà bứt rứt cử động về phía ông cứ như để phủi gàu khỏi ve áo ông. Và thực sự có cái gì đó ở đó - một con ruồi đang bò trên cổ ông. Tôi nghĩ nó bò ra từ cổ áo ông và thấy lo lắng bởi ý nghĩ về những con giòi - từ ngày đó trở đi, thực vậy. Dẫu sao thì nó cũng khiến tôi dừng ngay cái cười đáng ghét của mình, giống như Ada sắp sửa đập tôi chứ không phải con ruồi.

Bà nhìn nó bay lên và bay khỏi ông, đụng vào tấm rèm cuốn, một lần, hai lần. Rồi nó quay trở lại giường. Tôi đang đứng sau lưng bà, tôi có thể cảm thấy cơn tức giận ngấm ngầm dữ dội khi bà thấy nó bay đảo vòng, và lỉnh mất, rồi quay lại đậu lên cái cổ chết cứng của Charlie. Nó đáp xuống và bò trên mặt da, không phiền vì những nép nhăn sâu trên lớp thịt mềm, hoặc mấy lọn tóc trên cao. Ada cử động, hoặc chuẩn bị cử động, và con ruồi bay lên và lặp lại quá trình đào thoát tới bức rèm cuốn, lần này tìm ra một con đường vòng qua mép rìa sáng của bức rèm để đụng vào ô cửa kính, ở đó nó kêu vo vo và tông kình kịch. Chúng tôi lắng nghe nó một lát, tiếng cầu kinh mân côi bên ngoài, và âm thanh con ruồi đập vào mặt kính.

Ada chết điếng. Bà nhìn xác chết. Bà không nhúc nhích được. Rồi bất ngờ có vẻ như bà nhận ra rằng đây là phòng ngủ của chính bà, với chồng bà trong đó, dù chết hay không, bà chỉ đi vòng qua giường. Khi tới cửa sổ, bà giơ tay lên và ấn bức rèm sát vào. Tiếng vo vo ngừng bặt. Ada bà nội trợ, với một vết bẩn kinh hoàng trên bức rèm cửa. Bọn trẻ chúng tôi lúc này phơi ra trước cái đầu hói của Charlie, trần trụi trong cái chết.

Ta có thể nghĩ có một cái gì đó nhẹ nhàng ở cái chết - đôi khi chúng ta cảm thấy cuộc sống của chúng ta quá nặng nề - nhưng vết lõm mà đầu của Charlie tạo ra trên gối thì sống động và sâu.

Tôi nhớ lần ông nằm xuống ở công viên Phoenix, đầu ông giống như một tảng đá trên cỏ. Và tôi nhớ bàn tay tôi trong miệng ông - nguyên cả bàn tay - trong khi ông vặn vẹo nó và bật cười. Hẳn tôi lúc đó còn rất nhỏ, bàn tay tôi biến mất trong khuôn mặt khổng lồ này và - có vẻ như nơi nào đó khác - sự hỗn loạn trào dâng của cái lưỡi ướt của ông, những phần phẳng và nhọn êm ái với những chiếc răng hàm của ông.

Hộp sọ là phần xương gần không khí nhất. Đây là điều tôi nhận ra khi nhìn da trên đỉnh đầu của Charlie; nó trong suốt không có máu, và màu rám nắng phủ khắp bề mặt, một lớp tráng hết sức mỏng. Ada từ cửa sổ quay lại, thúc chúng tôi bước tới nhìn, hoặc chứng kiến, hoặc có lẽ sờ nữa, vật thiêng liêng ngắn ngủi này, ông ngoại đã chết của chúng tôi. Và tôi cho rằng nó thật sửng sốt. Giây phút nhìn này. Khi họ đã ra đi, nhưng chưa mất hẳn. Khi ta không chắc hoàn toàn về điều ta thấy.

Vì vậy tôi đã nhìn - vào ông, hoặc nó. Và tất cả ổn và không có gì ngạc nhiên, trừ hàm ria mép. Charlie, lúc sống, có bụi ria mép trắng tuyệt diệu, có mùi chanh, hơi vểnh lên ở hai đầu. Ông ngoại là người duy nhất tôi biết có một món đồ chơi trên mặt. Hàm râu ông nhúc nhích và gây rối trí và làm hoa mắt. Nó là trò ảo thuật của cái miệng. Và bây giờ nó nằm yên, chẳng che giấu cái gì cả.

Không có ma thuật nào cả.

Đó là điều khiến tôi khóc - chờ hàm râu của Charlie nhúc nhích, và nhận thấy rằng nó không còn động đậy. Sau cùng, không có ma thuật nào cả. Ada trở lại cạnh chúng tôi, thì thào, “Giờ thì nói tạm biệt đi,” và Liam, người lớn hơn tôi gần một tuổi, bước tới một bước rồi dừng lại, vì anh không biết phải làm gì.

“Suỵt,” Ada nói với tôi. “Nín khóc đi.”

Tôi không biết khi ấy họ có rút máu ra không? Ý tôi là, liệu ông có được ướp xác trước khi liệm không, đó có phải là tục lệ của hồi đó không? Máu đang tụ ở vai và mông ông, máu chảy xuống sau đầu ông, tìm kiếm trọng lực, đã muốn ngấm xuống qua tấm nệm: máu thâm tím và đông lại trong ông lúc này, khi phía trước ông (bạn thấy đấy, điều đó đúng thực) trở nên nhẹ hơn gần như không nhận thấy, và chúng tôi đứng đó, để ông ra đi: máu đó, nặng nề và dẻo dính và kỳ cục như vậy - tôi tự hỏi nó còn ở trong ông không, bởi vì nó giống hệt, hoặc một phần tư giống hệt, như máu của chính tôi. Nếu tôi làm đứt tay, ngay bây giờ, tôi sẽ thấy nó tuôn chảy.

Thật buồn cười, nhưng tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có bà con với Charlie, cho dù ông là ông ngoại tôi. Ông là một loại người khác. Ông khiêu vũ với Ada trong nhà bếp. Ông không có một công việc mà ta có thể gọi tên cụ thể. Ông không luôn luôn ở nhà.

Không người nhà Hegarty nào có đôi mắt màu nâu chó của ông, hoặc cái mũi cao, đẹp đẽ của ông - dù quả thực là những thằng cháu trai đằng ngoại của ông đều bị hói, khi thời điểm tới. Và đây là điều mà Liam không dự kiến được khi anh đứng đó chờ làm việc thích hợp, ngay khi anh biết việc thích hợp cần làm là gì. Anh không thấy rằng anh sẽ chết với cái đầu hói trọi, dù tôi nghĩ cả hai chúng tôi đều biết, khi anh chồm tới để chạm vào bàn tay chết cứng tội nghiệp của Charlie, rằng Liam sẽ chết.

Anh đang trên đường tới đó.

Nếu bạn hỏi tôi anh trai tôi trông ra sao sau khi anh ấy chết, tôi có thể nói với bạn rằng anh ấy trông giống như chúa Giêsu trong tranh Mantegna, trong bộ đồ ngủ có họa tiết cánh hoa. Và đây có thể là một sự thật tổng quát về người chết, hoặc có thể nó là điều xảy ra khi ai đó nằm trên cái bàn nhà xác, cao, chân hướng ra cửa. Đây là lý do tôi biết rằng Liam đã chết, khi cuối cùng tôi thấy anh ở Brighton, vì anh quá cao khỏi mặt đất, và cái thứ cho anh nằm thì quá cứng và phẳng, bởi vì người chết không bao giờ cảm thấy không thoải mái - thậm chí khi ta cố hết sức để bắt họ không thoải mái. Tôi không nghĩ tôi đã nhìn đỉnh đầu anh, hoặc nghĩ về cái đầu hói của anh, hoặc nghĩ về bất cứ chuyện gì. Và tôi vui mừng khi tôi đã thực tập chút đỉnh về toàn bộ sự vụ này - sự vụ nhìn - bởi vì dù tôi yêu Charlie, thì đó cũng vẫn là tình yêu hối hả, dễ dàng của một đứa trẻ, luôn luôn sẵn sàng để yêu ai đó mới hơn.

Nhưng, ta không dành thời gian để xem xét thân xác của anh trai ta, dù chết hay sống, hình dáng và những bộ phận của nó, hay kết cấu da của nó. Vì vậy tôi không thể nhớ lại Liam với bất kỳ chi tiết nào. Tôi chỉ biết là anh chết trông hoàn toàn khác hẳn, trong khi Charlie trông vẫn là chính ông. Và, khi ngơ ngác trước bộ đồ ngủ in hình những cánh hoa cũ xì, ngớ ngẩn, tôi nhận ra rằng đây là lý do chúng tôi bị đẩy lên những bậc thang ở Broadstone ở tuổi lên tám và vừa lên chín đó - bởi vì Ada đã thấy ngày này sẽ đến. Bà đã biết từ đầu. Bà muốn chúng tôi được chuẩn bị.

Hoặc có lẽ nỗi sầu não của bà quá lớn đến độ bà phải kéo mọi người vào trong đó, kể cả bọn trẻ chúng tôi. Có lẽ bà muốn toàn thể thế giới phải chứng kiến, và thấy kinh sợ.

Tôi không kinh sợ, tôi chỉ cảm thấy cô đơn. Không phải vì Charlie đã ra đi - tôi không quan tâm đến Charlie, tôi ghét Charlie, tôi hy vọng ông đang nhung nhúc những con giòi dưới bộ đồ đó. Nhưng bởi vì tôi không muốn ở trong căn phòng đó, và không ai quan tâm. Những cảm xúc của tôi không có liên quan - không chỉ với sự kiện đặc biệt này, mà với toàn bộ việc là người còn sống.

Tiếng đọc kinh mân côi đã dậy lên trên đường cầu thang, khi Liam bước lui lại còn tôi đứng đó và không chịu nhúc nhích. Bàn tay Liam đặt lên cánh tay tôi, đã bắt đầu xám xịt vì thối rữa; Ada đằng sau vai tôi, thì thào bảo tôi tiến tới.

Tôi không đi.

Bà ngoại tôi không còn kiên nhẫn. Bà di chuyển thay cho tôi và đặt tay bà lên xác chết; lần đầu lên cổ tay, trong chớp mắt, và sau đó - có vẻ như ngẫu hứng - lướt dọc theo đường quai hàm của ông. Bà đặt tay từ tai đến cằm ông, ốp lấy chiều dài của xương.

Phải một lát sau chúng tôi mới nhận ra bà đã bị dính chặt. Và thêm một lát nữa mới có ai đó bước tới sau lưng bà và kéo bàn tay bà khỏi cái gò má lạnh ngắt, ngoái cổ lại, trong khi làm thế, để nói, “Thế đủ rồi.”

Giống như toàn bộ là lỗi lầm của chúng tôi - sự phiền hà của da thịt chết này, và tình yêu vẫn còn thở nằm trong thân thể Ada, một tình yêu không biết đi đâu.

“Thế đủ rồi.”

Ông Nugent. Dĩ nhiên.

Và bây giờ tôi nhớ ông Nugent ở đó ở cuối phòng, lẽ ra tôi phải nhớ ông đã ở trong phòng ngay từ đầu, ngồi cạnh tủ quần áo, vì vậy con ruồi, khi nó bay lên khỏi cổ của Charlie mới bay ngang mặt ông ta, trước khi đánh vòng đến ánh sáng của cửa sổ và bức rèm. Ông ta đang cúi người về phía trước, khi chúng tôi lần đầu tiên bước vào, với khuỷu tay chõi vào đầu gối và chuỗi tràng hạt lòng thòng muốn chạm sàn nhà, và mặt gỗ dái ngựa sau lưng ông tối đen gần bằng bộ đồ đen của ông.

Tôi chưa từng tin cậy những người đàn ông cầu nguyện. Phụ nữ, dĩ nhiên, không có sự lựa chọn - nhưng đàn ông nghĩ gì, khi họ đang quỳ? Tôi không nghĩ bản chất của họ là cầu nguyện: họ quá tự kiêu.

Nhưng ông ta đó, rầm rì bài kinh Kính Mừng khi chúng tôi lũ lượt kéo vào phòng: tôi, đứa được cho là có trách nhiệm, anh tôi, thô kệch và ương bướng trong chiếc áo len chui cổ đi học màu xám của anh, và kế đến là Kitty. Và lúc này dĩ nhiên tôi phải thêm Kitty vào từ đầu, đứa em nhỏ của tôi, lên thang sau lưng chúng tôi, bởi vì hẳn nó cũng phải có mặt ở đó. Kitty làm công việc này giống như nó lên rước lễ - đầu hạ thấp và mặt hếch lên đầy sùng kính. Nó có đặt một bông hoa cúc dại lên ngực Charlie, một bông hoa mao lương vàng kiểu trẻ con lên áo gối không? Không. Như tôi nhớ lại, Kitty bước tới nói, “Bai bai,” và quay đi rời khỏi phòng. Con bé sáu tuổi. Nó thích chiều lòng khán giả. Lẽ ra tôi phải biết trước, đêm nào mà tôi chẳng phải uốn tóc nó vào những dải vải, để giữ cho những lọn tóc xoăn chặt.

Nugent ở đó ngay từ đầu: vì lòng can đảm của Charlie và lòng mộ đạo dễ thương của Kitty và vì quả bóng ích kỷ khổng lồ dâng lên và vỡ tung trong ngực tôi.

Tiếng gào to lớn, vô cùng khốn khổ của nó, nói với tôi rằng tôi còn sống.

Tôi nhớ điều đó thật rõ. Tôi nhớ những lọn tóc của Kitty, tuy tôi không thể, dù đã cố hết sức, xoay ký ức về em gái tôi lại để nhìn khuôn mặt sáu tuổi của nó. Tôi không thể, dù đã cố hết sức, nhớ lại khuôn mặt Liam, dù tôi không thể quên được bàn tay chín tuổi của anh chạm vào bàn tay chết của Charlie - bàn tay Liam lốm đốm vết đỏ bầm trong khi bàn tay Charlie thì sạch, bởi vì cơ thể của ông đã quên rằng đó là mùa đông, trong ngôi nhà lạnh lẽo đó. Có những bức ảnh. Đó là dấu vết nụ cười của anh tôi trong tấm gương của chính tôi, một giọng nói đôi khi tôi lặp lại. Tôi không nghĩ chúng tôi nhớ được gia đình mình trong bất cứ cảm giác thực nào. Mà chúng tôi sống trong họ.

Những điều duy nhất tôi chắc chắn được là những điều tôi chưa từng thấy - những trò báng bổ lặt vặt của tôi - Ada và Charlie trên giường cưới của họ, xương mu của bà giống như ức của con gà thiếu ăn dưới bàn tay to lớn của ông, hoặc trọng lượng rầu rĩ của con cu ông khi bà thò xuống bên dưới cái bụng dài để kéo ông vào sát hơn. Mặt trời trên những bức màn in hoa.

Niềm hạnh phúc.