Chương 13
Khi còn học đại học, tôi đã xác định rằng Ada từng là gái điếm - kiểu nó phải thế. Đó hẳn vào khoảng thời điểm bà chết. Tôi nhớ có thảo luận giả thuyết này của mình với Michael Weiss, anh ta rất thích nó, tuy rằng, như anh chỉ ra, rất có thể bà từng là nữ tu, mà theo quan điểm của anh thì cả hai gần như cùng là một thứ, có lẽ bởi vì anh từ Brooklyn đến.
Vâng, đúng.
Michael Weiss là kiểu người ngày hôm trước cho sữa vào trà rồi ngày hôm sau quyết định phản đối chuyện đó hôm sau, và anh sẽ, chắc chắn, khiến tôi phát khùng lên qua thời gian. Nhưng tôi nghĩ anh nói điều gì đó đúng về Ada, hoặc về khoảng cách giữa tôi và Ada. Bởi vì tôi, tương tự, có thể cũng từ Brooklyn đến, nhìn vào sự kiện bí ẩn của cuộc đời bà mà quyết định ve câu chuyện duy nhất có thể giải thích về tất cả chúng tôi.
Tôi không nghĩ mình có mặt nổi trong buổi dọn nhà, khi bà chết - tối đó có lẽ tôi ở quán rượu Belfield - và những câu hỏi về việc ai là chủ ngôi nhà và tiền sẽ đi về đâu, một khi xác Ada được mang ra khỏi đó, là một vấn đề mà tôi hoàn toàn dửng dưng. Dù câu hỏi này, đột nhiên, về việc bà là ai hay bà làm gì; kẻ mồ côi, Ada Merriman, thì không như vậy.
Tôi xoay xở có mặt được ở tang lễ. Có mái tóc uốn quăn của mẹ tôi trong hàng người trước mặt tôi, với cha chúng tôi một bên và bên kia, chị của bà, dì Rose của chúng tôi. Còn có một người con thứ ba, một em trai tên là Brendan, nhưng lúc đó có lẽ cậu đã chết, nên đây là những người còn lại buồn bã của vận may của Ada: người mẹ rũ rượi của chúng tôi, Maureen, và Rose giáo viên nghệ thuật trong Bộ Đồ Vải Tuýt Lạ Mắt xanh thẫm và xanh ngọc. Anh chị em nhà Hegarty đứng thành hàng sau lưng họ: dâu rể những em bé được lọc ngồi riêng ở những hàng ghế xa hơn, và có thể rằng chúng tôi ngồi theo trật tự tuổi tác, ngay từ hồi ấy; “những bậc thang” như người ta thường ngân nga, dù cầu thang bây giờ không toàn vẹn nữa, với những khe hở và những tấm ván gãy nứt và sự không cân xứng giữa lũ ngốc này và lũ kế tiếp. Lớn lên, tất cả chúng tôi trông giống như những con chim cu, từng đứa một trong chúng tôi: tất cả chúng tôi đều có vẻ lạc loài.
Sau đó, tôi đứng ở rìa đám đông nhìn quan tài của bà ngoại tôi được hạ xuống, với sự thờ ơ buồn rầu. Ada của những năm gần đây là một bà già sống nốt quãng đời được dành cho mình. Bà hiền hậu, dĩ nhiên - bà là bà ngoại của tôi mà - nhưng bà không phải là người phụ nữ đánh thức tôi lúc bốn giờ sáng với câu trả lời cho tất cả chuyện này: vấn đề hóc búa của nhà Hegarty, lý do tất cả chúng tôi bị rối loạn cả lên thế này và có mặt đông đúc ở đây.
Lamb Nugent nhìn Ada Merriman bên kia tấm thảm của khách sạn Belvedere, và bà nhìn thẳng lại ông, và phần còn lại, như người ta nói, là lịch sử.
Năm mươi sáu năm sau chúng tôi uống trà và ăn sandwich kế tiếp là tự chúc mừng trong căn nhà nhỏ đến kỳ lạ của bà ở Broadstone; thế hệ thứ hai trải rộng, những người bắt đầu thế hệ thứ ba, mẹ tôi đăng quang yếu ớt trong căn phòng đẹp, chị bà trong nhà bếp phàn nàn về bất cứ thứ gì mắt bà nhìn thấy. Vào lúc đó, những gì hỏng bét với khuôn mặt người ta đã hoàn toàn hỏng bét với khuôn mặt của họ; miệng dì Rose tru lại với vẻ phản đối, cái nhìn của mẹ tôi giờ đầy nước và mơ hồ. Ada có thể giỏi với con cái của người khác, nhưng bà cực kỳ kém cỏi với con của bà. Nhưng “Ơ, bà ấy thật dễ thương,” họ nói, những láng giềng và vài người bạn còn lại: hai người đàn ông - bây giờ tôi mới biết họ đồng tính - vẫn đối xử tử tế với bà, con gái của một nữ diễn viên đã chết thường xuất hiện trên ti vi. Và chẳng lẽ Jimmy O’Dea không gửi một giỏ trái cây vào sinh nhật của bà sao? Và Frank Duff, người thực sự đứng đầu Đạo binh Đức Mẹ, đã ghé nhà bà mỗi Giáng sinh. Quả thật ông đã làm thế: tôi nhớ, đó phải là năm chúng tôi lưu lại đó, ông đến giống như một bà già Noel nhỏ với một hộp sô cô la trong chiếc túi thắt dây. Ông trao nó cho Ada và siết chặt cánh tay bà, giống như họ đã sống quá nhiều, mỗi người trong bọn họ, đến độ chẳng còn gì để nói.
Buổi sáng Giáng sinh đó trong trẻo và khô lạnh như thường lệ - ký ức của tôi sẽ không cho phép trời mưa. Mà nó cũng không cho phép chúng tôi về nhà ở đường Griffith, bởi vì đây là năm chúng tôi được giao cho Ada, tôi và Liam và Kitty, và chúng tôi không gặp mẹ, thậm chí Giáng sinh cũng không, dù cha chúng tôi đã đến cùng một Bea trông đầy tự mãn vào lúc nào đó trong buổi chiều.
“Mẹ vẫn chưa khỏe hẳn,” chị ấy nói, trông có vẻ cực kỳ sùng đạo trong chiếc áo thun không tay, một loại áo bằng nỉ với những sọc đỏ sậm và xanh. Và vào buổi tối, ông Nugent tạt vào thăm với một hộp nước quả nấu thành thạch, hoặc thạch giả trái cây, xếp thành những vòng bán nguyệt màu cam và vàng và xanh.
Tôi quá quen thuộc với những thứ này đến độ không quan tâm đến chúng, năm mà Ada đã chết. Quá khứ này là một điều quá chán với tôi. Cái chết của Ada cực kỳ tẻ ngắt, khi chúng tôi chuyền tay những miếng bánh sandwich và chịu đựng không khí bị lạm dụng của những căn phòng nhỏ này. Và, “Ơ, bà ấy dễ thương khủng khiếp, bà ngoại của bạn ấy,” điều đó là sự thật, dĩ nhiên rồi. Dĩ nhiên là đúng. Và họ nhấm nháp hoặc từ chối rượu sherry nhẹ của họ, và dọn dẹp nhà bếp đầy giấy gói thức ăn, rồi bỏ đi, để lại mẹ tôi trên chiếc ghé của bà trong căn phòng đẹp, người cha yêu vợ quá đắng của tôi đứng cạnh bà, hơi khom người xuống; dì Rose trên lầu lén hút điếu thuốc cuối cùng ở cửa sổ phòng tắm, bởi vì dì vẫn không hút thuốc công khai, cho dù mẹ của dì tôi đã chết rồi không buồn quan tâm, và vả lại, bà vẫn luôn biết thế.
Có vẻ hơi thiếu đứng đắn, nhưng chính lúc này chúng tôi được đưa lên phòng ngủ của Ada, theo lệnh của cha chúng tôi để “lấy những gì các con thích”; bọn con gái nhà Hegarty thích thú hưởng trận đấu gào rú lặng lẽ nhất chúng tôi từng có, nghẹt thở vì giận và thù ghét nhau trong tiếng thì thào. Tôi kết thúc với một số chuỗi hạt huyền, những chiếc lông đà điểu đen lấy ở bệ lò sưởi của Ada và một bàn tay bằng sứ nhỏ có một chỗ trống trong lòng bàn tay nơi bà cất nhẫn của bà. Ai đó khác đã lấy những chiếc nhẫn, dĩ nhiên rồi - tôi không có cơ hội. Kitty luôn luôn cần các thứ hơn ta cần, Bea luôn luôn đáng nhận chúng hơn, trong khi Midge tội nghiệp - ồ, Midge luôn từ chối mọi thứ cho đến khi chị ấy được thuyết phục nắm lấy tất tật các thứ. Vì vậy tôi rời ngôi nhà với tiếng gào hơi tiếc vì tất cả những thứ tôi bị từ chối, dù chẳng có gì ở đó tôi thực sự ham muốn. Tôi đã bỏ vào giỏ, vì lòng ham muốn nhất thời, những mẫu vải và tập vải của Ada, dưới ánh sáng ban ngày chúng có vẻ là những món vô dụng đến độ tôi nhét chúng vào một thùng rác bên đường. Tôi không biết cách ham muốn những gì bà để lại đằng sau. Tôi muốn rời khỏi đó, chỉ vậy thôi. Tôi muốn một cuộc đời lớn lao hơn.
Liam đã bỏ lỡ tất cả chuyện này, bởi vì sau mùa hè chúng tôi đến làm việc ở London, anh không trở về nhà. Đúng hơn là thỉnh thoảng anh đến, và đi dự vài buổi nói chuyện: tôi có thể bất ngờ gặp anh trong một nhà hàng hay quán rượu, và anh luôn có một chỗ khác để lưu lại, và sau vài tháng hoang đàng anh bỏ đi.
Đó là năm cuối cùng của anh ở trường đại học. Hầu như mọi tối, tôi bị lỡ xe buýt và ở lại với Michael Weiss trong phòng trọ Donnybrook của anh: hai phòng cao với một vách ngăn không chạm trần quanh nhà vệ sinh và một vách ngăn khác quanh nhà bếp. Cửa vào phòng ngủ đã mất và có một tủ quần áo đồ sộ cũ kỹ dựa sát tường. Tôi thiếp ngủ giữa những mảng bóng tối này - cái tủ đen, và khung cửa trống hoác, qua đó những giác quan của tôi đong đưa – chuyện gối chăn vẫn ấm và làm đau giữa hai bắp đùi tôi, và không có chỗ nào để nghỉ ngơi.
Có nhiều chuyện tôi đã nói với Michael Weiss, năm đó, mà từ đó đến nay tôi không nói với ai khác. Đó là năm 1981. Nhưng chưa có gì xảy ra, ở Ireland - đó có phải là điều buồn cười khi nói ra không? Chưa có gì xảy ra trong cuộc đời tôi trừ nhu cầu thoát ra khỏi nó. Tôi ép Michael Weiss uống whisky - những trò màu mè của nó - có lần, tôi ép anh dắt tôi quanh phòng và đi tới đi lui trên phố để giã bớt một lượng paracetamol quá liều, thực tình chỉ ít thôi. Tôi đã cho Michael Weiss một thời kỳ gian khổ kỳ diệu và tôi đã cưỡi anh đến rã rời, khi điều anh muốn làm chỉ là chống một tay chõi người lên nhìn mặt tôi, thuyết phục tôi xuống.
Hình ảnh của tôi về những đêm ấy là một người đàn bà (chính tôi) nằm trên giường, lưng cong lại, miệng há mở, tay quờ quạng tìm bức tường. Không âm thanh.