Chương 14
Tôi nghĩ về bà khi tôi rửa bát đĩa. Dĩ nhiên là tôi có máy rửa chén, vì vậy nếu như có lúc tôi phải khóc thì cũng không khóc vào bồn rửa chén, một cách lặng lẽ như Ada. Bồn rửa chén là chỗ để bà khóc. Nhìn ra từ phía sau nhà, thứ gì đó ở đống khoai tây bất tận cần gọt vỏ, hoặc vẻ lặt vặt của cái sân, nhưng, có lẽ giống mọi phụ nữ khác, Ada sụt sịt chút đỉnh và sau đó tinh, tinh, vài giọt nước mắt rớt xuống nước trong bồn rửa. Giống như mọi phụ nữ Ada đôi khi phải chùi mũi bằng cẳng tay bởi vì đôi bàn tay bà ướt. Chẳng có gì ngạc nhiên về chuyện này. Tuy nhiên tôi phải nói, tôi có máy rửa chén Miele bằng thép không gỉ. Và nếu cần phải khóc, tôi khóc một cách đứng đắn, ngay trước ti vi.
Cuộc sống thật gian khó với bà ngoại tôi, giờ tôi biết điều đó. Điều đáng ngạc nhiên là ở chỗ, hầu hết thời gian, bà không hề khóc, mà thay vào đó bà cứ sống thế.
Ada rất ít tin. Bà tin vào ngôi nhà sạch sẽ. Nhưng bà không tin, hoặc chưa từng gợi ý, rằng nếu ta ăn hột táo thì một cây táo sẽ từ rốn ta mọc ra. Tôi không nghĩ bà có thể tin bức tranh của tôi về “cô bé Ada Merriman mồ côi”, dù quả thực cha mẹ bà chết trước khi bà lớn. Ada chỉ không tin tất cả thứ chuyện đó. Việc tưởng tượng ra các thứ, hay thậm chí nhớ lại chúng, có gì đó khiến bà hơi khó chịu - giống như chuyện đồn nhảm, duy chỉ tồi tệ hơn. Những ngày này, dĩ nhiên, tôi ít làm gì khác ngoài tưởng tượng. Và tất cả là lỗi của bà. Bởi vì nếu tôi nhìn xem trí tưởng tượng của tôi bắt đầu ở đâu, thì đó là tại bồn rửa chén của Ada, ở Broadstone.
Có một tấm lưới nhựa đỏ cho công đoạn sơ khởi, một tấm vải xanh dày cho công đoạn tỉ mỉ và một miếng bọt biển cho công đoạn hoàn chỉnh. Có một tấm vải bông trắng để chùi khăn trải bàn, không bao giờ dùng để lau đĩa. Có một tấm vải dùng cho sàn nhà, không bao giờ dùng làm khăn trải bàn. Tôi phải biết tất cả chuyện này, bởi vì tôi là con gái lớn nhất trong nhà. Công việc của tôi là tiếp quản nhiệm vụ ở bồn rửa, và rửa chén dĩa.
Tôi không ghét chuyện đó lắm. Tôi thích được ở gần bà.
Nhưng tôi đã tưởng tượng ra các thứ. Đứng tại cái bồn rửa Belfast đó, nhìn ra khoảng sân và khung cửa màu xanh mở ra nhà xe bên ngoài, tôi tưởng tượng Ada với chiếc va li lúc chín tuổi, hoặc mười, hoặc bất cứ tuổi nào của bà khi mẹ bà chết và bà một mình đối mặt với thế giới rộng lớn này. Tôi cố tưởng tượng ra một ông bố cho bà, nhưng không thể. Tôi hình dung mẹ tôi chết tại nhà ở đường Griffith - lặp đi lặp lại, thực thế - mẹ tôi chết, và cha tôi khóc rồi chết theo, và sau đó, khi bà đã được chôn chặt, tôi tưởng tượng những cuộc phiêu lưu kỳ thú cho chính tôi và Liam, bởi bây giờ chúng tôi cũng là những đứa mồ côi.
Tất cả chuyện này trong lúc Ada bắt tôi tráng đĩa với nước rót thẳng từ chiếc ấm đun, và Charlie nháy mắt với tôi, khi bà quay lưng đi.
Một buổi sáng nọ bà gọi tôi vào phòng bà. Bà sắp đi đâu đó, ăn mặc chỉnh tề. Bà cũng mang, tôi nhớ, một cái bao ngón tay như miếng băng cá nhân màu hồng, được kéo chặt quanh cổ tay bằng một vòng thun. Vì một lý do nào đó tôi nghĩ bà gặp tai nạn với cái máy may, nhưng điều này có vẻ quá dữ dội, thực thế, đến độ không thể có thực. Tôi không có hồi ức nào về những cái móng bị đâm thủng, trong bất cứ trường họp nào, hoặc những tiếng rú và cảnh rối loạn từ phòng kho nhỏ. (Và sự việc là tôi bây giờ có thể mường tượng ra việc đó - cây kim tuột khỏi tầm kiểm soát, việc lôi người phụ nữ ra khỏi cái máy may đầy đau đớn - khiến tôi nghĩ rằng Ada đúng; có điều gì đó trái đạo đức ở việc tưởng tượng.)
Dù sao thì cái bao ngón tay cũng ở trên ngón tay bà và tôi được gọi lên căn phòng trên cùng và, “Lại đây,” bà nói, ngoái cổ nhìn và nâng nhẹ váy lên, ở phía sau. “Gắn lên cho bà coi.” Và bà xoay chân để tôi nhìn thấy một bên.
Đùi bà nhỏ xíu kỳ lạ. Nó chằng chịt gân xanh đen tụ thành đám, bên trên đôi tất dài bùng nhùng, được gấp lại ở mép thành một đai màu cam dày. Những miếng trắng nhỏ đung đưa ở đầu các dải ruy băng chun lại, từ một chỗ tôi không thấy được, hay không muốn thấy, và phải mất hồi lâu tôi mới hiểu ra bà yêu cầu tôi làm gì. Tôi phải cúi người xuống cạnh những tấm đắp kiểu Gothic trên chiếc coóc xê của bà và buộc nổi nó vào đôi tất dài chờ sẵn bên dưới. Tôi nhớ độ mềm mại của những chiếc khuy bấm cao su cắn vào lớp tất nylon không chịu nằm yên một chỗ, và sự mát lạnh của chân bà, và mùi chua của vật đáng trọng của bà. Và tôi tưởng tượng rằng mọi người đàn ông ghé chơi đây đều biết về những kẽ hở bí mật này giữa những quần áo của bà, tư thế hai chân kỳ thú của bà, và lớp vòm chật căng của chiếc coóc xê của bà, phơi mở ra cho không khí bên dưới.
Và có lẽ họ đã biết.
Vì vậy khi Frank Duff đến nhà, tôi nghĩ ông ta cũng theo đuổi bà.
“Chỉ một chút gì đó thôi, Ada. Không, tôi năn nỉ đó! Chỉ một chút xíu gì đó thôi mà.”
Đó là Frank Duff, thủ lãnh thực sự của Đạo binh Đức Mẹ thực sự, một tổ chức tôn giáo, vào năm 1967, tôn thờ sự vô nghĩa và việc pha trà.
“Chúa phù hộ em. Chúc Giáng sinh vui vẻ cho tất cả con cháu em.” Và ông ta vuốt bàn tay yêu thương lên má tôi, tóm nhẹ lấy cằm, buông nó ra.
Ông Nugent đến sau đó với hộp trái cây ưóp thạch. Phớt lờ Ada và xoay ra nói chuyện với bọn trẻ. Đó là Giáng sinh: ngày của chúng tôi.
Thực ra thì Frank Duff dành những năm đầu đời để cứu vớt những cô gái điếm khỏi đường phố Dublin. Đó là chuyện ông làm năm 1925 - người đàn ông thông minh, dễ thương này - ông ta đang tổ chức những hội đoàn; ông ta thuyết phục các cô gái bỏ nhà chứa, trả tiền chuộc cho má mì của họ, và đưa họ đến những nhà lánh nạn. Đây là sứ mệnh vĩ đại đầu tiên của Đạo binh Đức Mẹ. Vào mùa chay năm 1925, khi Ada gặp Charlie, Frank Duff nói nhiều hơn những lời cầu nguyện của ông.
Tôi khám phá ra điều này khi tôi đuổi theo ông qua những kho sách thư viện đại học, trong lúc làm tiểu luận cho bài tập cuối cùng ở đại học của tôi, đặt tên (tôi nghĩ không có ý mỉa mai châm biếm), “Việc trả tiền cho quan hệ tình dục ở Nhà nước Ireland Tự do”. Bởi vì tôi đột nhiên chắc chắn về nhiều điều. Bao gồm chuyện người ta giao cấu, đó là một trong những việc họ đã làm: đàn ông giao cấu với đàn bà - nó không xảy ra theo hướng ngược lại - và cơ chế gây ngạc nhiên này sẽ làm thay đổi, không chỉ tương lai của tôi, vốn đang hẹp lại giữa khi tôi nhìn nó, mà còn cả thế giới quá khứ đã hoàn tất và rộng lớn của tôi.
Vì vậy trong một lát tôi tưởng tượng Ada là một trong những gái điếm được phục hồi của Duff. Bà không phải là một gái điếm thô kệch, dĩ nhiên rồi - bà là một đứa trẻ mồ côi. Bà hầu như không phải là gái điếm. Bà là một cô gái tội nghiệp, quay mặt vô tường khi những đồng tiền kêu loảng xoảng trên bàn cạnh giường, và bóng dáng tối đen của một người đàn ông rời khỏi phòng.
Chúng ta hãy bám sát chuyện này. Một váy lót xa tanh, phần ren hơi bị rách. Một bức ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh đặt trong một ngăn kéo, cho đến khi ông ta đi. Một tiểu thuyết về sự sa ngã. Và cơn lạnh run trong phòng chờ của bác sĩ, siết lấy cái áo khoác len ở ngay cổ, chỗ bị mất nút. Một sự tưởng tượng trung lưu, bẩn thỉu, về những chiếc tất nhăn nhúm, và bệnh lao, và việc ngồi xổm để rửa ráy bên một cái chậu trên sàn nhà.
Vì vậy có những thầy tu trong sảnh khách sạn Belvedere tối đó vào mùa chay: và một bà tú, và người đàn ông của chúng tôi với hộp kẹo sô cô la, Frank Duff. Họ đang mua chuộc bà tú này. Một cách lặng lẽ. Họ đang dẹp chuyện làm ăn của bà ta.
Bên ngoài Ada và Nugent lắng nghe, và rồi quên lắng nghe mạch câu chuyện mong manh lọt ra khỏi sảnh trước. Ít nhất trong một chốc, họ chỉ ngồi đối diện nhau - người đàn ông từ tổ chức Đạo binh Đức Mẹ và cô gái điếm thợ may nhỏ bé. Xác suất là bao nhiêu? Bà đẹp. Còn ông thì sống quá tầm mình. Thành phố này lặng lẽ và khách sạn này lặng lẽ, và không có ai ở đây để nói với Lamb Nugent rằng ông sẽ ngồi trong căn phòng trước đẹp đẽ của người phụ nữ này suốt phần đời còn lại của ông, chìa ra chiếc tách sứ nhỏ của ông để đáp lại câu Thêm trà nhé, Lamb?
Không có ai, nghĩa là, cho đến khi Charlie Spillane bước vào cửa.
“Thưa bà,” ông nói, khẽ nghiêng cái mũ không hề tồn tại của ông. “Tôi hy vọng anh bạn này đã giữ cho bà được vui.”
Michael Weiss, như tôi nói, thích nó - nhưng ngay khi anh ta thích nó, tôi đã đổi ý. Ngay khi anh ta nói từ “mại dâm” nó co rút lại, câu chuyện ốc sên nhỏ bé của tôi đang tìm đường vào thế giới này. Anh ta chưa bao giờ gặp Ada. Anh ta không biết gì về những điều tôi nói đến. Tôi đang nói về gia đình. Tôi đang nói về việc chúng tôi đang làm, ba lần một đêm. Tôi đang nói về đóa hoa thịt của cái hĩm của tôi dưới bàn tay anh.
Trong khi đó Liam xuất hiện và lại bỏ đi. Anh có một căn phòng đi vào một quán rượu ở Stoke Newington; và anh lo âu về những kỳ thi; cha chúng tôi đỏ mặt tía tai khi nói về sự lãng phí tài năng của anh và số tiền lớn đổ vào học phí.
“Hãy nói với thằng anh đó của con, nếu con gặp nó. Nói thằng anh con gặp mặt ta nếu nó có thể. Nói với nó vậy cho ba.”
“Ô, cái gì ba? Nói với anh ấy cái gì?”
“Ý con là sao, cái gì nghĩa là sao?”
“Được rồi. Con sẽ nói với anh ấy.”
“Cái gì?”
“Con sẽ nói với anh ấy.”
Mẹ tôi nói, “Ai? Nói với ai?”
Chất Mỹ trong Michael Weiss nghĩ gia đình Hegarty cực chịu chơi. Anh ấy thỉnh thoảng gặp Liam trong quán rượu Belfield, và hai người ăn ý theo cái đáng ngạc nhiên mà đàn ông có - người đàn ông ngủ với ta và anh trai ta, chẳng hạn, họ nhìn nhau, gật đầu, và liền trở thành ẩn ý .
Nó khiến tôi hơi điên, thực sự, khi nhìn hai người bỏ đi chơi bi-a, trong khi tôi ngồi đó một mình với ly Satzenbrau.
Nhưng chúng tôi đã có mấy tối tuyệt vời, ba đứa chúng tôi, bản thân tôi và Liam làm một việc mà chúng tôi đã bắt đầu vào mùa hè đầu tiên đó ở London, đó là kể chuyện về gia đình chúng tôi cứ như toàn là bịa ra. Chúng tôi có màn tung hứng về lễ thụ phong của Emest, lòng bàn chân vàng khủng khiếp của anh khi anh nằm phủ phục trên bệ thờ, hình ảnh mẹ chúng tôi, khi tất cả trò phù phép được thực hiện xong, lập cập đi qua để mặc cho anh chiếc áo choàng, và sau đó, tại một kiểu tiệc cưới, hai người họ cùng cắt bánh với nhau, anh trai tôi và mẹ tôi, và hôn nhau khi làm xong.
“Anh không tin được,” Michael Weiss nói. “Mẹ em à! Anh không tin được!” và anh có thể bắt đầu kể lể điều gì đó về lễ thành niên kiểu Do Thái của anh, điều mà chúng tôi phớt lờ, dĩ nhiên.
Dù một số việc ở gia đình chúng tôi thấy là buồn cười nhưng anh không thấy buồn cười chút nào. Người anh bé bỏng Stevie của tôi - đã chết lúc lên hai - “Bà đã làm chuyện đó,” Liam nói. “Bà đã đặt cái gối lên mặt anh ấy,” và chúng tôi cười ngặt nghẽo. “Ô, thôi nào, mẹ có bầu suốt. Lúc nào cũng có bầu.”
“Anh thì có làm thế không?”
Không lâu sau Michael muốn ghé thăm nhà. Tôi không biết làm sao giải thích cho anh biết rằng không ai quan tâm anh có ghé thăm hay không, nhưng mọi người sẽ cười anh cả năm nếu anh xuất hiện tại cửa. Cuối cùng anh bấm chuông với một chùm hoa rất Mỹ vào đêm vũ hội sinh viên, và đi thẳng vào giống như Cary Grant, qua tiền sảnh và phần phòng khách mở rộng, đi tuốt luôn tới phần coi nối làm nhà bếp, cha tôi nhổm lên khỏi ghế của ông mà bắt tay chàng trai, và “Ô. Xin chào,” mẹ tôi nói, như bà có thể nói, có lẽ sẽ nói , với người sao Hỏa từ luồng sáng hạ xuống tấm trải sàn của bà, hoặc với tay nghiện ma túy thủ con dao, như bà sẽ nói trên giường bệnh của mình với cô y tá, hoặc với đường hầm ánh sáng rộng mở.
“Ô. Xin chào.”
“Michael Weiss, thưa ngài,” Michael Weiss nói, chìa ra bàn tay thành thật và đầy nam tính; cha tôi, phải ghi nhận cho ông, đã nén xuống nhu cầu muốn hỏi liệu đấy có phải là một loại tên Do Thái không, dù sau này ông vẫn hỏi tôi chuyện đó.
“Weiss, đó không phải là cái tên Do Thái chứ?” khẳng định rằng ông không phải là một kẻ bài Do Thái khi ông không biết bất cứ người Do Thái ngớ ngẩn nào.
“Bây giờ ba đã biết một người rồi đó.”
Tất cả chuyện này trước khi tôi bắt đầu đi cả đêm không về và những cuộc cãi cọ xảy ra. Bạn có thể thắc mắc ông có được sinh lực từ đâu. Cha tôi rất nóng tính, nhưng hiếm khi ông mất bình tĩnh với các con gái của mình. Ông chỉ nổi nóng với các con trai, nhưng chỉ khi họ chống đối ông. Dĩ nhiên bọn con trai chống đối ông suốt, nhưng hễ là chuyện của bọn con gái, ông có thể phớt lờ mọi chuyện về nhà quá khuya miễn là ta không xin ồng tiền trả taxi, ông có thể để cho ta đi vào say mèm, miễn là ta đi ngang ông và tiến thẳng lên lầu, ông có thể không nghe ta nôn mửa trong nhà vệ sinh miễn là sau đó ta dọn dẹp sạch sẽ, nhưng khi ông hỏi xin ta một điếu thuốc và ta lôi ra một hộp Durex, giống như một nữ sinh cá biệt, thì ông buộc lòng phải phun trào, và vẫn tiếp tục phun trào, giống như suối Old Faithful, cho đến khi ta tự tìm ra nơi ở khác.
Ngoài những lý do khác, chúng là của phi pháp. Mọi người đều có. Dù chúng ta cần chúng hoặc không.
Không có gì mà cha tôi sợ không nói. Ông không có ý thức về khoảng cách. Hầu như ông như thể đang nói chuyện với chính mình. Tôi đánh đĩ khắp Dublin. Tôi là thứ hàng hóa cũ, tôi đang biến mình thành cái bồn cầu - tôi không lừa bạn - dù tôi nghĩ điều ông thực sự muốn nói là tôi không làm việc tôi được sai bảo.
Vụ la hét xuất hiện hai ba tháng trước kỳ thi tốt nghiệp của tôi. Và dù nó cũng là chuyện cười theo cách của nó, nó đã tác động đến kỳ thi của tôi - mà tôi thì rất coi trọng chuyện thi cử. Có lẽ đây là lý do tôi cảm thấy không can hệ đến thế: tôi đang ngồi trong bếp nghĩ về Robespierre, chưa kể đến Frank Duff, cha tôi làm ra vẻ giận dữ - ông là người đàn ông nhỏ con, cha tôi ấy - và tôi cho rằng mình cũng góp phần đáng kể vào việc la hét, nhưng một phần trong tôi chỉ là nhìn ông, xì lên, màu đỏ trên cổ ông, trong khi mặt ông trắng bệch, rồi sắc đỏ sôi lên quanh đôi mắt xanh của ông, cho đến khi mặt ông đỏ lên một cách bất ngờ, đồng nhất, và lớn tiếng. Trên cái đầu hói của ông cũng có một vùng chỏm đỏ. Tôi nhớ mình đã nghi rằng bản thân ông không tin những điều ông nói, và chính sự thiếu niềm tin này, kết hợp với sự thiếu niềm tin của chính tôi, đã đẩy ông đến những thái cực như thế.
Hồi đó ở Belfield, người bạn thân nhất của tôi Deirdre Moloney vừa bị mẹ cô ấy tống ra khỏi nhà chẳng vì chuyện gì cả: một kiểu con gái rất chừng mực, con nhỏ mới quan hệ tình dục có hai lần. Con cái bị quẳng ra đường khắp Dublin. Tất cả bố mẹ chúng tôi trong những ngày đó đều điên hết. Có điều gì đó ở mùi của chúng tôi phát triển khiến họ hoàn toàn mất trí.
Trong vài tuần, cha tôi không thể nhìn tôi, và điều này làm tổn thương tôi ở nơi ba-yêu-con-gái-cưng; nơi ta vẫn tin cậy và đùa giỡn. Nhưng dù nó gây tổn thương, tôi vẫn nhận ra rằng tôi có thể dựa vào những tổn thương xưa cũ nhiều hơn tổn thương đó - và đây là cách tôi sống sót. Đây là cách tất cả chúng ta sống sót. Chúng ta mặc định theo vết thương lâu đời nhất.
Điều gây thương tổn lúc này là việc cha tôi đã chết. Ông chết năm 1986. Vì vậy ông không bao giờ đi vào những cửa hàng nơi người ta bán bao cao su cạnh máy tính tiền. Ông không bao giờ phải thay đổi cách nghĩ của mình, dù nhỏ nhặt nhất. Tôi cũng nghĩ về ông khi tôi nắm bàn tay quanh tấm mai mực mà Rebecca nhặt được trên bãi biển, bởi vì nó gọi tôi nhớ về một hột xoài; thực sự thì khi cha tôi chết không ai ở Ireland ăn xoài, dù tôi nghĩ trái kiwi hồi đó là thứ rất được ưa chuộng. Và tôi cảm thấy mình phải an ủi ông vì những quả xoài. Tôi phải an ủi ông vì khoảng cách chúng tôi đã rời xa khỏi nơi ông dừng lại.
Nhân thể, hồn ma của ông không thèm lý tới chuyện tôi ngủ với ai. Hồn ma của ông ở ngoài chuyện tình dục. Và đôi khi tôi nghĩ rằng mình cũng thế.
Nhưng vẫn có Michael đó, trước con bão tố, bắt tay cha tôi và cha tôi không nói, “Weiss hả? Nói chung đó là loại tên gì?”
Tôi bước vào nhà bếp trong cái váy Jenny Vander màu đồng, trông, theo ước tính, khá đẹp. Hai chúng tôi đi bộ rời ngôi nhà tôi đã lớn lên, Michael Weiss vui thích đến không tả được.
“Anh không tin,” anh nói. “Anh không tin được. Mọi thứ em nói. Tất cả đều thật.”
Và tôi đã - tôi đến nay vẫn thế, ngay cả khi viết điều này ra - xấu hổ điếng người.