Chương 15
Cửa tiền sảnh nhà Ada sát đường. Không có vườn hay lối dẫn tới cửa nên người ta đi ngang qua nó, rất gần, mà không bước vào. Cách bố trí này cũng không thay đổi được như bản thân Ada, và cũng đầy phấn khích. Trong suy nghĩ của tôi, bà luôn luôn tréo ngoe với thế giới.
Vào mùa hè, cửa này phủ lớp vải bạt màu kem, với những sọc nâu nhạt dày mỏng xen kẽ. Có một khe hở nằm ngang để lộ ra miệng hộp thư, một khe dài cho búa gõ cửa, và một lỗ tròn nhỏ cho cái chuông. Cánh cửa bên trong, nếu ta giở tấm vải lên, được sơn màu xanh ve chai.
Ngôi nhà nằm trong một dãy những ngôi nhà nhỏ y hệt nhau, mỗi căn đối xứng với căn kế tiếp, nên các cánh cửa nép sát vào nhau thành từng đôi. Chúng tôi ngủ ở phía sau ngôi nhà. Tôi nhớ mình đứng tại cửa sổ phòng ngủ nhìn ra nhà xe bé tí ở cuối khu vườn nhỏ của Ada, và nhìn con hẻm bên kia. Chúng tôi có hai giường cho ba đứa chúng tôi, một cái rộng cho hai đứa con gái và một cái hẹp cho Liam. Giấy dán tường là kiểu hoa màu xanh lơ và xanh lá cây, có dạng củ và hơi có ánh kim loại; chúng khiến cho toàn bộ nơi này hơi vặn vẹo dưới ánh mắt trẻ thơ chăm chăm của tôi.
Đây là tôi, ở tuổi lên ba, tai áp sát vào vách máy giặt màu đồng của bà, hoặc nhìn vào qua mép gờ, để thấy chuyển động cuộn xoáy và xóc nẩy của quần áo: Ada đẩy mớ quần áo này qua máy vắt (Đừng đụng vào mấy vắt), mớ xà bông cuối cùng xì xì ra trong khi mấy thứ quần áo, bị vắt cạn kiệt, từ từ trượt qua, sau đó bò ra giữa hai trục lăn, rớt vào giỏ giống như một khối vải không nhàu Crimplene.
Đây là tôi đang nhai cái nón tắm cao su của Ada để những bông hoa màu vàng nổi tiếng của nó xuất hiện trong tã lót của tôi ngày hôm sau. Tuy rằng, dĩ nhiên, nó phải là tã lót của Kitty - khó mà là của tôi, ở tuổi lên ba. Ada hét gọi Charlie, ông nhìn qua vai bà và nói, “Ở đâu chúng ta có được một đứa con gái thông minh như thế?”
Dĩ nhiên tôi ghen tị với cô em gái mình, nhưng tôi cũng dành cho nó một tình yêu kỳ lạ, mạnh mẽ nữa. Chẳng có gì ngạc nhiên khi tôi đánh cắp những ký ức của nó thay cho những ký ức của riêng tôi. Tuy bây giờ tôi nhận ra, không có người đàn ông nào thò tay vào một tấm tã bẩn, như tôi có thể thấy Charlie làm trong trí tưởng tượng của tôi, để kéo ra một chùm hoa vàng bết phân.
Đây là tôi, dứt khoát là thế, kéo cái nón tắm che mặt. Tôi liếm mặt trong mằn mặn của nó, cho đến khi nó bịt kín tôi - mùi tóc của Ada trong biển. Rồi tôi bắt đầu chìm ngập trong ánh sáng màu hồng, nổ tung ra thành những đóa hoa mềm mại màu đỏ rực, và một màu đen tuyền sáng khác thường.
Chuyện này đã xảy ra chăng? Thế giới tổn thương khi cái nón bị kéo đi; Ada, ở bên ngoài tôi, đang la hét. Tôi bị kéo vào bộ ngực lép xẹp của bà, có vị của len và những mẩu xà bông Lux.
Mà rất có thể, chính Liam đã chụp cái nón lên mặt tôi và suýt giết tôi. Hoặc là Kitty bị hai đứa tụi tôi làm ngạt thở. Chúng tôi đóng trò ngất xỉu suốt, việc đó sẽ đặt cái nón - cái nón tắm màu hồng thơm tho, kỳ quặc, với những bông hoa màu vàng mềm rũ - vào thế giới của một đứa bé tám tuổi chứ không phải thế giới của một đứa mới lên ba.
Đôi khi, trong những cửa hàng quần áo cũ, tôi tìm những món giống như những thứ đó, nghĩ rằng nếu có thể cầm cái nón đó trong tay, nếu có thể căng nó ra và ngửi mùi của nó, thì tôi sẽ biết cái nào là cái nào và đứa nào là đứa nào trong đám Kitty, Liam và tôi.
Lần thứ hai chúng tôi tới ở nhà Ada cha lái xe đưa chúng tôi đi ngang thành phố vào một buổi chiều vắng xe cộ - chắc là một ngày Chủ nhật - với những va li trong ngăn hành lý. Và điều khiến tôi kinh ngạc hồi đó là chẳng hiểu sao ông lại biết rành đường.
Đây là nơi sự im lặng xảy ra - khi tôi đứng trong căn phòng phía sau nhìn ra nhà xe và đường hẻm. Đó là một sự im lặng ngập tràn, giống như không khí được làm bằng gỗ, và kiểu hoa dạng củ trên giấy dán tường phòng phía sau vừa hơi vặn vẹo vừa hoàn toàn đứng yên, dưới con mắt tám tuổi của tôi.
Và - tôi không biết tại sao chuyện này lại cần nói ở đây - nhưng đây là cha tôi trong gian bếp ở đường Griffith, có lẽ sáu năm sau, đang nắm thành bàn gỗ cứ như nó là cuốn Kinh Thánh, và đang gào la với Liam bằng giọng thận trọng những câu, “Ta yêu mẹ con từ ngày ta để mắt thấy bà lần đầu. Ta tôn thờ mặt đất bà bước lên.”
Đây chắc là Liam đang nói điều gì rất xúc phạm, ở tuổi mười ba hoặc cỡ đó. Môi cha tôi mỏng lại và tím ngắt, ngực ông nhấp nhô như ống bễ, ép vắt ra từng cụm từ như những luồng khí.
“Ta YÊU Mẹ con từ NGÀY ta để MẮT thấy bà lần đầu. Ta TÔN thờ mặt ĐẤT bà BƯỚC lên.”
Trong khi Mossie đọc báo, tôi tiếp tục làm bài tập ở nhà của tôi, và Midge vừa khóc về điều gì đó khác hoàn toàn vừa pha một tách trà.
Ông chắc chắn là nói nghiêm túc. Cha tôi, run rẩy, trong khoảnh khắc trước khi cái gì đó bị ném hoặc bị vỡ. Lúc đó Liam gọi ông là con khỉ đột ngứa dái, có lẽ vậy.
“Ba là con khỉ đột ngứa dái!”
Và bay ra khỏi phòng, trước khi anh có thể bị tóm lấy đầu và ăn một quả đấm.
Cha tôi là người nhỏ con. Và ngực ông luôn luôn rít và hát lên. Và tôi chẳng nhớ gì giọng như tôi nhớ được sự im lặng sau khi ông đóng cánh cửa trước của Ada và chuồi vào ghế trước chiếc xe hơi, lái đi.
❀ ❀ ❀
Khu vườn nhỏ của Ada có lẽ chỉ là một cái sân, nhưng chúng tôi nghĩ nó là một nơi đầy hứng thú, với những cây tầm ma và táo dại: cửa dẫn ra nhà xe có khi mở có khi bị chốt lại, và chuyện ta không bao giờ biết liệu ông Nugent có ở trong đó không chỉ tăng thêm phần thú vị mà thôi. Liam xài những dụng cụ trên bàn thợ máy, hoặc chơi với chiếc xe hư trong đó. Tôi thuờng ngồi trên lớp da xanh được khâu ráp của ghế trước, với nhiều chỗ còn căng phẳng và có chỗ bị xé toạc. Tôi không thử lái; bảng đồng hồ quá kỳ lạ. Tôi chỉ thường trượt tới trượt lui trên lớp nệm ghế, hoặc lăn trở trên những đường chỉ khâu khéo léo, và nói bằng giọng kẻ cả với bất cứ ai đang lái, dù anh ta thực sự có ở đó hay không.
Hai cánh cửa kép dẫn ra lối hẻm sau, nơi có một chiếc xe khác nữa nằm trên những cục kê, một vật mạ crôm và màu xanh nhạt với những cánh tản nhiệt to tướng kiểu Mỹ. Thậm chí bây giờ tôi cũng không thể nhìn một chiếc xe bỏ phế mà không có cảm giác đau nhói. Ông Nugent đến và đi qua những cửa dẫn ra con hẻm, và quanh quẩn trên bàn thợ máy, hoặc đút đầu vào ca pô của con quái vật Mỹ này nếu đẹp trời. Vào thứ Sáu ông đi vòng ra cửa trước và gõ cửa, và ông luôn luôn có kẹo cho bọn trẻ. Ông đội mũ, giở xuống khi Ada mở cửa. Phải qua nhiều năm tôi mới để ý ngạc nhiên trước tính nghi thức của cung cách này, hoặc điều đang xảy ra.
Ada gọi ông là Nolly, dù tất cả chúng tôi biết rằng cần gọi ông ta là ông Nugent, nếu có bao giờ gọi ông ta bằng một tên gì, dù chúng tôi cũng không bao giờ gọi.
Đôi khi bà gọi ông là Nolly May, bà có thể gọi vậy sau khi ông đi, “Ôi, Nolly May,” đẩy cái ghế ông đã ngồi lại sát tường. Ông chẳng làm gì nhiều trừ việc ngồi đó cảm thấy bị xúc phạm vì giấy dán tường, nhưng luôn luôn có chút mồ hôi trên người ông, và ông hắng giọng hoài, và bạn có thể thấy rõ ông thèm muốn bà ngoại biết bao nhiêu.
Bà có cung cách thật tuyệt vời, bà ngoại tôi. Bà thích đặt các thứ lên khay. Bà có những quan điểm rõ ràng về đường cát đóng viên về chuyện chỗ nào là dành để đặt miếng bánh nướng của bạn giữa hai lần cắn, tất cả điều ấy khiến bạn cảm thấy thực sự không thoải mái và rất được yêu thương. Bà may quần áo trong phòng kho trên lầu, và đôi khi bà làm việc trong nhà hát, đó là lý do tại sao mọi việc phải đàng hoàng. Nó góp phần tạo ra một kiểu không khí cuộn xoắn giữa bà và những diễn viên thỉnh thoảng đến thử áo. Họ có vẻ bóp nặn ra cái gì đó giữa họ với nhau, cho đến khi - ồ, nói đi! - căn phòng ngập điều ám chỉ. Tuy nhiên bà vẫn dọn dẹp ly tách sau khi chính người khách đó đã ra về và nói với tôi rằng sân khấu là một cuộc sống thú vị nhưng nó khiến bạn rất cay đắng. Hoặc bà sẽ nói điều gì đó khó quên kiểu như, “Tình dục chẳng đưa ta tới đâu cả trong thế giới này. Hãy nhớ điều đó, tình dục dứt khoát Chẳng Đưa Ta Tới Đâu Cả.”
Dù Charlie thường vắng nhà, bà vẫn có chúng tôi bầu bạn, và đôi khi một nữ diễn viên nào đó ngủ lại trong phòng kho, nếu cô ta có một buổi diễn trong thành phố, bị nhét vào đằng sau hình nhân của thợ may và cái máy may điện. Ít nhất tôi nghĩ cô ta ngủ trong đó. Hình nhân này tác động kỳ lạ lên trí tưởng tượng của tôi; thậm chí trong đầu tôi cũng không thể mở được cánh cửa, lúc này, để nhìn vào trong.
Peggy McEvoy, cô ta được gọi vậy. Và cô ta đã đính hôn với ai đó trong lãnh vực truyền hình.
Và có Nolly trong căn phòng đẹp, hắng giọng và nuốt, trong khi chúng tôi ăn bánh quy VoVo do ông mang tới, và bánh pizza Blackjacks. Tôi biết ông qua vị của kẹo và ánh phản chiếu ở mắt kính của ông, hoặc vẻ nặng nề của những túi áo của ông, hoặc khối u nhỏ lạ kỳ đang mọc đầy bên trong tai ông. Đôi tay ông được đặt ngay ngắn trên mỗi đầu gối, và ông luôn luôn hơi chồm người tới, không dựa hoàn toàn vào lưng ghế. Ông ngồi như một ai đó không có nhiều quan hệ tình dục, khi bây giờ tôi thấy ông trong tâm tưởng tôi - và cái nhìn của ông cũng quá suồng sã, theo một cách mà bây giờ tôi cũng nhận ra. Dù ông, theo cách chán nản của ông, có bốn đứa con và một bà vợ chúng tôi chưa hề gặp, tên Kathleen. Khi Ada rời khỏi phòng ông sẽ đứng lên khỏi ghế và bước tới ti vi tắt nó với một tiếng cạch. Sau đó ông sẽ ngồi xuống lại và nhìn chúng tôi. Một phút sau ông thường xoay xở lấy thứ gì đó từ túi áo ra.
“Nó không phải đồ chơi đâu.”
Dù nó luôn luôn là thứ gì đó thật thú vị. Ngày nọ nó là một con chuột bạch - hoặc, nó hẳn là một con chuột nhắt - với đôi mắt đỏ cái đuôi hồng, và ông nâng cổ tay áo len của tôi lên, để cho nó chạy lên tay áo tôi và lên ngực tôi: Ada bước vào rồi rú lên.
Bà mang trà lên đặt trên một chiếc bàn nhỏ có hai bàn nữa nhét vào bên trong nó, cái này nhỏ hơn cái kia. “Trải khăn trên bộ bàn xếp lồng nhau này,” bà nói với tôi. Và “Charlie nói” điều này và “Charlie nói” điều nọ, bà sẽ nói với Nolly May, khi đặt khay xuống hoặc trao cho ông một tách trà. Bà đang nói về ông ngoại Charlie của chúng tôi, người mà, khi Nugent không ngồi đó, “Ông ấy đi hồi mấy giờ? Cháu có thấy ông ấy lấy tiền trên kệ này không?”
Tôi không nghĩ Charlie uống rượu (thậm chí những thói xấu của ông cũng lỗi thời), ông chỉ làm mọi chuyện khác. Hoặc không chuyện gì khác. Thật khó mà nói rằng ông đã làm gì, trừ việc ông vắng mặt. Và đôi khi ông trở về với quần áo khác.
“Ô, ông đối đãi với bà cứ như một nữ hoàng,” như họ nói trong những bữa thịt được nấu trong đám tang. Họ có một câu chuyện, Ada và Charlie, điều đó là chắc chắn, trong đó mỗi người đóng những vai quan trọng nhất, và khi bà băng qua phòng tới chỗ ông, ta có thể rõ họ cảm thấy cam chịu số phận ra sao, như thể tình yêu của họ là một gánh nặng lớn lao cũng như niềm vui với họ.
Một lần tôi bước vào phòng khách thì họ đang ngồi trên hai đầu trường kỷ, ông để bàn chân già nua của bà lên lòng ông, và đang xoa bóp nó qua lớp tất mỏng.
Tôi không thể kể với bạn Nugent đã làm gì, dù đâu đó trong đầu tôi in chặt rằng ông là người thu tiền cược cá ngựa, hoặc thư ký của người thu tiền cược cá ngựa, rằng thỉnh thoảng ông mặc áo khoác len casomia xám, bước vào chiếc xe hơi đen, và được đưa đến trường đua. Tôi chỉ thực sự biết rằng ông dùng nhà xe phía sau cho những chiếc xe hơi cũ cọc cạch của ông và ta không bao giờ biết liệu ông có ở trong đó hay không. Tôi đã nghĩ - nếu tôi có nghĩ bất cứ chuyện gì vào lúc đó - rằng Ada cho phép ông dùng nó bởi vì bà không có xe hơi riêng, và vào thời điểm đó, Charlie không lái xe.