Chương 24
Tôi đón xe lửa từ Brighton trở về, và gặp Kitty trong một quầy rượu ở “Gatwich Village”, chờ chuyến bay về nhà. Nơi này thật đáng chán, vẫn toàn nước cặn của ly vại và gạt tàn, mà lại là trên những chiếc bàn thu nhỏ để dành chỗ cho xe đẩy thức ăn, ba lô và túi xách; đàn ông ngủ gục bên cốc bia đang uống, râu ria không cạo và buồn bã. Còn quầy rượu thì chỉ là quầy rượu giả vờ, một góc được sơn phết của sảnh sân bay, một sàn nhà được tô màu khác. Không có cửa. Tôi len qua đống hành lý và những cuộc đời bị chậm hoãn để tìm Kitty - một phụ nữ giống cô em tôi một cách kỳ cục, dù già hơn nhiều.
Khi tới được cái bàn, tôi nhìn xuống những chiếc ly rỗng trước mặt nó và hỏi, “Cả mớ này là của em hả?”
“Ô, im mẹ nó đi,” con bé nói.
“Chỉ hỏi thôi.”
“Hai ly là của em, phần còn lại thì không, được chứ?”
“Em muốn một ly nữa không?”
“Được, cám ơn, em sẽ vui lòng uống một ly nữa.”
Tôi quay người để len tới quầy rượu, và nghe nó nói, “Bunny,” đó là tên nó gọi tôi hồi nó còn nhỏ. Tôi quay lại ôm nó, lưng tôi vặn đi, thân người vươn ra, khi nó hơi nhổm dậy để nhận cái ôm, đùi nó kẹt bên dưới cái bàn gỗ nhỏ. Tóc nó sờ như đồ giả, giống như một bộ tóc giả, nhưng tôi nghĩ nó chỉ bị cứng do tác dụng của thuốc nhuộm và dầu gội Frizz-Ease. Trông từ xa, nó vẫn đẹp, quăn và đen như xưa, tuy rằng khi nhìn kỹ mặt nó tôi thấy nó đã suy sụp, một cách rất cơ bản, và tất cả những gì vẫn khiến người ta chú ý - đôi mắt xanh, và đôi má tinh nghịch, và nụ cười hút hồn, một con sóc Celtic trọn vẹn - đã tan chảy dễ như sáp, để lại thịt lòng thòng bám lấy những xương, xương, toàn xương.
“Em khỏe không?” tôi hỏi.
“Em khỏe không hả?”
“Phải. Em khỏe không?” tôi nói.
“Khỏe. Em khỏe.”
“Thế lại, muốn uống gì đây?” tôi nói.
“Gin pha soda, cám ơn.”
“Phải, chị đã nghĩ là vậy.”
“Phải.”
Đã nhiều năm rồi, tôi nghĩ, từ khi tôi gọi một ly ở quán rượu. Người bồi quầy phớt lờ tôi trong khoảng thời gian dài kinh khủng. Tôi chỉ muốn hét vào mặt ông ta rằng tôi đã lớn và lúc này muốn cho ông ta một sổ tiền. Tôi muốn nói, “Anh tôi đã chết! Phục vụ tôi ngay!” nhưng rồi, thì đã sao? Một số người đã không gặp anh em họ hàng hai mươi năm.
Tôi lấy ly gin cho Kitty và một cho tôi.
“Hệ đo lường Anh,” nó nói, giơ ly lên mà lúc lắc, kiểu như tôi là một con ngốc không bằng.
Kitty luôn than phiền về chuyện bị đánh khi còn nhỏ, dù trên thực tế nó là đứa cực kỳ hỗn láo; nó luôn gây chuyện để bị đánh nữa, và nó thường ăn đòn; không chỉ từ tôi và Liam, những người thực ra là thích nó, mà còn từ Mossie-loạn-thần-kinh, người đã châm chích và chọc giận biến nó hoàn toàn thành một Shirley Temple*. Có điều gì đó siêu nhiên trong cơn giận dữ của nó ở tuổi lên sáu hoặc bảy, thân thể con bé cứng ngắc và cơn tức giận của con bé rít quanh phòng, cho đến khi con bé chộp được nó và nhét nó vào trong mình. Sau đó, con bé nổ bùng thành một nùi bông phun ra lửa, một cô em trong phim hoạt hình, trút những nắm đấm vào ngực Mossie. Mà điều đó chỉ chuốc lấy rắc rối, bởi vì bạn không nên đưa mọi thứ đi quá xa với Mossie. Ít nhất với tôi và Liam, chúng tôi chỉ làm thế để chòng ghẹo.
•
Diễn viên nhí nổi tiếng hồi thập niên 1930 với vai một bé gái quá quắt trong bộ phim nhiều tập Frolics of Youth.
Và dĩ nhiên tôi cảm thấy có lỗi, khi nghĩ về nó lúc này, và tôi không tin vào việc đánh bất cứ ai, hoàn toàn không, nhưng tôi vẫn tìm thấy mơ hồ một thứ gì đó còn hơn cả giải trí khi con bé còn là một đứa nhóc quá quắt khó tính như vậy. Cái hất đầu, vẻ thượng đẳng nho nhỏ nào đó, nó khiến tôi ao ước con bé lại ở tuổi lên sáu lần nữa.
Tôi nâng ly lên, một cách nhẹ nhàng hết sức, nói, “Chúc mừng.”
Con bé bắt đầu khóc ngay khi chúng tôi lên máy bay; nó khóc suốt đường về nhà. Hàng lít nước mắt. Nó chuyển từ ri rỉ lặng lẽ sang thở dài, hất và lắc mạnh, rồi trở lại từ đầu. Tôi nghe như nó đang tập luyện khóc không kém gì khóc thực sự. Tôi nhìn ra cửa sổ, trong khi cô tiếp viên tử tế đề nghị thêm suất rượu mạnh vào cà phê của nó và sau đó tính năm Bảng cho khoản đó.
“Cô ổn không? Cô có chắc không?”
Người đàn ông cạnh nó phía bên kia biết rằng ai đó đã chết. Ông ta tự hỏi tôi có phải là nhân viên xã hội không, hay có lẽ thậm chí là một viên giám ngục, và tại sao tôi không cầm tay con bé. Và tôi cũng tự hỏi sao tôi không cầm tay con bé, khi tôi nhìn xuống bề mặt biển Ireland xa xa. “Chúng tôi đã ngủ cùng phòng suốt hai mươi năm,” tôi muốn nói với ông ta. “Điều đó không đủ cho ông sao, nó không thực sự hơn thế và xa hơn thế sao?”
Trong khi đó, Liam đang ngồi phía trên cách một dãy ghế ở bên kia lối đi. Có một vẻ đe dọa mơ màng ở bóng ma của anh khiến tôi nhận ra anh hờ hững làm sao khi cuối cùng anh rời bỏ tất cả chúng tôi để đi vào lòng biển. Tôi có thể cảm thấy cái nhìn chằm chằm của anh lên hai má tôi khi anh ngoái lại nhìn tôi, kinh dị và chết chóc. Tôi biết cái nhìn đó nói gì.
Sự thật. Người chết chẳng muốn gì khác. Đó là thứ duy nhất họ đòi hỏi.
Tôi nhìn lên quá nhanh, và anh đã biến mất.
Có một ngôi nhà trắng lớn trên đảo Lambay - kiểu Georgie, theo ước đoán, đáng giá vô số tỷ. Tôi thấy nó lần đầu, ắt hẳn là từ bờ biển, vào cái ngày chúng tôi đi với Ada đến thăm cậu Brendan khùng điên của chúng tôi. Và bất ngờ tôi ý thức được trọn vẹn rằng con trai của Ada đã mất vì tình trạng bẩn thỉu và thuốc an thần Largactyl. Đã bao nhiêu năm rồi nhỉ? Có lẽ cậu chết mà vẫn còn tự hỏi mình thực sự là ai.
Tôi đảo mắt dọc bờ biển tìm một bãi biển, một cây cầu, một cửa sông, rồi trở lại tới một mũi đất - và nó ở kia: một ngọn tháp tròn như mũi bút chì, một tháp nước như cái bình to và, bên cạnh nữa, một cụm những tòa nhà có cây cối vây quanh. Khi vừa nhìn thấy, tôi lại mất hút nó, máy bay nghiêng cánh và chỉ thấy bầu trời.
“Chuyện gì đã xảy ra với cậu Brendan?” tôi hét với Kitty, át tiếng ồn.
“Chuyện gì đã xảy ra với cậu Brendan?”
“Phải, cậu Brendan.”
“Chị muốn biết chuyện gì về cậu Brendan?”
Máy bay mở cửa bụng dưới và chúng tôi chờ những bánh xe khóa lại. Bung những chân nhỏ thẳng của nó ra, thọc sâu những gót của nó xuống.
“Cậu chết rồi,” Kitty nói, dịu giọng.
“Chết rồi à?”
“Em rất thích cậu.”
“Vậy hả?”
Tôi tin chắc tôi chưa từng gặp cậu, dù bây giờ cậu ở đây, bất ngờ tại bàn tiệc Giáng sinh ở phố Griffith, một khuôn mặt bị biến thành kỳ quái bởi hai má chảy xệ, cánh mũi cậu viền đỏ và hai mắt - hai mắt khi tôi nghĩ về chúng thì mệt mỏi và không vui, như thể điên là một công việc chán ngắt, chán ngắt gần ngang với Giáng sinh. Ký ức của tôi đặt cậu vào một cái nón giấy màu cam, với một ly rượu mạnh trên bàn tay run rẩy, nhưng trong nhà chúng tôi không có rượu cho đến khi Liam bắt đầu lén mang vào, và cũng không hề có những chiếc nón giấy.
Chúng tôi thừa hưởng màu mắt từ Brendan: mắt Spillane gặp màu xanh Đại Tây Dương của cha tôi để cho chúng tôi đôi mắt nghiện rượu, nguyên tuyền, có màu xanh không-pha-không-uống-thêm; đẹp và bệnh hoạn và hơi thẫn thờ, hoặc đãng trí, cho đến khi chúng tôi “kích hoạt chúng”, nói thế là muốn nói chúng tôi chú ý đến ai đó và quyết định cho mắt chúng tôi màu xanh trọn vẹn.
(Mắt tôi giống mắt của Ada, một kiểu mắt xám mà người ta gọi là “liath” trong tiếng Ireland khi viết về những bức tường đá hoặc biển cả. Alice cũng có đôi mắt màu mưa này, giống như Ivor và Midge. Chúng tôi không phải là dòng Hegarty náo động, đích thực, mà một tiểu chủng loại; chủng Firbolg* của phố Griffith.)
•
Firbolg: một trong những sắc dân cư trú tại Ireland từ thượng cổ, theo thần thoại.
Cậu Brendan cũng là nguồn cội nơi chúng tôi có được khiếu toán học - thực tế đó là một khả năng khá tầm thường có liên quan tới việc nhớ số điện thoại và khiển trách các cô gái tại máy tính tiền siêu thị vì tính thừa tiền cho những mớ rau thập cẩm. Không ai trong chúng tôi có những thứ mà cậu Brendan có - điều này chúng tôi biết rõ - bởi vì cậu Brendan có Toán học. Chúng tôi vẫn luôn hiểu rằng em trai của mẹ tôi quá tốt để sống trong thế giới này.
Và dù Emest đọc Lý thuyết Dây bên ánh nến trên miền núi Peru, nhưng hầu hết người thông minh trong họ Hegarty đều chỉ vậy - thông minh, hàm ý rằng không được cứu chuộc; kiếm được ít hoặc nhiều tiền hơn người thường và có thói quen buông những lời nhận xét sắc sảo. Tôi nhận ra, khi chúng tôi hạ cánh, rằng cuộc sống ở Thánh Ita không phải là cuộc sống lãng mạn, mà giống hơn với một công việc kéo dài, bẩn thỉu là nhìn nước đái đọng lại trên lòng bạn, và gần như biết bạn đang nghĩ gì, đôi lúc.
“Tôi biết mình đang nghĩ gì!” người điên trong đầu tôi nói, đấm mạnh vào tay ghế bằng gỗ. “Tôi biết mình đang nghĩ gì!” và người y tá đi ngang nói, “Tốt cho ông!”
Nhà ga phi trường bắt đầu trượt qua cửa sổ và trông nó rất giống một bức tranh về một tòa nhà, toàn bộ nghi thức hạ cánh có cảm giác quá phim ảnh và giả tạo, đến độ trong một lát tôi không tin bất cứ cái gì của nó. Cậu Brendan hiện giờ không hề chết, hoặc không chết một cách thích đáng. Và có điều gì đó quá bất kham ở băng đi bộ di động này, những cầu thang cuốn và những băng chuyền hành lý, cái gì đó sẽ không gắn được vào đất Ireland, đến độ khi tôi lấy chiếc Saab khỏi bãi đậu xe và ra tới vòng xoay tôi lại rẽ về hướng Bắc thay vì hướng Nam trên con đường phi trường.
❀ ❀ ❀
Chỉ xa vài dặm, cái chỗ này đấy. Cây cầu nhỏ vẫn ở đó, và tuyến đường sắt, cắt về hướng Bắc. Sau đó, có một chỗ lỏng lẻo bất ngờ trong bản đồ tâm trí tôi và con đường rã ra trước mặt tôi. Tôi chỉ mới bắt đầu mất hy vọng thì nó bật trở lại thành con đường tôi nhớ được - chính con đường dài, thẳng đó. Có một con đường bê tông dọc mé tay trái, một dãy những cây tai hại dọc bên phải, đằng sau chúng một con hào rồi nhường chỗ cho một cánh đồng trũng, nơi một màu xanh ướt át sống động đây đó đổ dốc vào một hồ nước ngập trên cỏ.
Bên kia hàng cây là ánh sáng trắng thô của bầu trời bên trên mặt nước.
Nó đây. Không hề có sự thay đổi giữa con mắt tâm trí và con mắt thật của tôi. Tôi cố chậm dần lại bằng tốc độ của ký ức, nhưng nó đang trượt qua tôi quá nhanh.
“Em nhớ con đường này không?” tôi hỏi Kitty.
“Con đường nào?”
“Con đường này.”
“Nó thì sao?”
Con bé đã ăn sạch nửa quá khứ. Nửa cuộc đời tôi đã đi mất trước khi nó quyết định hiểu ra.
“Em nhớ nó không hả?” Kitty hỏi.
“Giêsu,” tôi đáp.
“Cái gì?”
Lúc này chúng tôi đi qua căn nhà nhỏ trong cánh đồng bắp, dù bắp đã bị xén tới gốc trong nắng thu xuống thấp.
“Cái ông với hai cây gậy?”
Và ở đây, nơi con bé có thể mang mọi thứ đến cao độ, Kitty chỉ nói, “À.”
“Đi dọc theo đây há?”
“Ở đây à?” Kitty nói. “Không, không ở đây.”
Vào lúc đó tôi tạm ngừng, và quẹo phải vào con đường tới bệnh viện.
Như thể chúng tôi đã lái xe qua một màn sương mù ngắn ngủi bất chợt, ở phía bên kia của nó là quá khứ. Tôi chạy xe ở số hai, chồm lên tay lái khi chúng tôi đi qua sân trước của dãy nhà dành cho người quản lý, nhà có lẽ của giám đốc, và sau đó tới bệnh viện, xây bằng gạch đỏ kiểu thời Victoria, bằng cỡ một thị trấn nhỏ.
“Dịch vụ cho người khuyết tật,” tấm bảng ghi và tôi nghĩ, với sự nhẹ nhõm, rằng những người điên giờ đã đi hết. Những người điên, rất tự nhiên, đã hóa thành tro bụi. Bây giờ người ta không còn điên nữa. Những người điên chỉ là một lớp chất cặn của da trong những phòng đó, bị cạo đi mất, hoặc bị chặt phăng đi, hoặc có thể bị loại đi: một triệu mẩu da, một sự mềm mại dưới lớp ván sàn, một đặc tính của ánh sáng.
Chúng tôi đi qua một vuông sân có một ống khói cao và một ngôi nhà thấp đặt nồi hơi, tất cả bằng gạch công nghiệp đỏ, quá lố. Có những cửa sổ tròn kỳ lạ ở ngôi nhà nồi hơi với Ngôi sao David sáu cánh làm khung cho những ô kính.
“Giêsu,” Kitty nói, thầm nghĩ, như tôi đang nghĩ trong một giây, rằng họ đang thiếu những bệnh nhân tâm thần trong đó, chỉ để giữ nóng những giàn sưởi của bệnh viện.
Tôi dừng lại ở bãi chơi bóng ném, vẫn để máy nổ, rồi nhìn cột tháp tròn và tháp nước bên kia. Nhưng không thể kéo thắng tay mà bước ra không khí trần trụi của dưỡng trí viện này, khi những cửa sổ hai cánh xếp thẳng hàng vẫn canh chừng. Tôi di chuyển chầm chậm về phía ngôi nhà nhỏ ở mé dưới gần biển, những bánh xe to bự của tôi bò qua lớp sỏi, sau đó tôi làm ba động tác trở đầu xe, và rời đi.
Khi trở ra được khỏi cổng, tôi chạy nhanh vài trăm mét tới biển, biển công cộng, biển để bơi. Nước muối luôn làm tôi cảm thấy lành mạnh như vậy; độ cao của những con sóng, cú nhảy của cá, hoàn toàn bất chấp sức ép khổng lồ của nó xuống đáy biển. Có một khu gia cư nhỏ chạy tới sát bãi biển, một đứa bé trên chiếc xe đạp, nghệt ra vì tò mò, và, sau khi tôi rẽ ở cuối đường, một bức tường xám rào quanh một cánh đồng nhỏ. Và trong cánh đồng đó - rất nhỏ - là một thập giá Celt ghi:
Tôi bước ra khỏi xe rồi đọc.
1922-1989
VÌ LÒNG NHÂN TỪ CỦA BẠN HÃY CẦU NGUYỆN
CHO NHỮNG BỆNH NHÂN NỘI TRÚ CỦA
BỆNH VIỆN THÁNH ITA
ĐƯỢC CHÔN TRONG NGHĨA TRANG NÀY
CẦU MONG HỌ ĐƯỢC YÊN NGHỈ
Chỉ một thập giá - còn mới - ở cuối con đường nhỏ ở giữa. Một hàng đôi cây non hứa hẹn trở thành những cây thanh hương trà. Không hề có những vật đánh dấu, không nấm mồ riêng lẻ. Tôi tự hỏi bao nhiêu người đã bị ném vào bụi của cánh đồng này và nhận ra, quá trễ, rằng nơi này đang sôi lên với những thi hài, đất được dệt từ mớ xương lộn xộn của họ.
Tôi ngoái nhìn, vô vọng, vào Kitty ở băng ghế trước.
Chúng nắm chặt bắp đùi tôi. Tôi bị chộp ngay bắp đùi bởi một cảm giác bất kể nó là gì. Một cơn gió mơ hồ. Nó vồ lấy tôi, luồn rất nhanh giữa quần áo và da thịt tôi. Nó nhấc mọi sợi tóc lên. Nó gặm môi tôi. Và biến mất.