← Quay lại trang sách

Chương 29

Cái xác vẫn chưa tới.

Tom bỏ lại phụ trương địa ốc trên bàn nhà bếp, cùng những dấu khoanh tròn và dấu kiểm chữ V quanh những mẩu bỏ phế của vùng nội thành. Anh gạch dưới những chữ “Cần tân trang”. Tôi nghĩ anh ám chỉ tôi. Tôi cũng nghĩ rằng - cám ơn, Tom - đây là chuyện hay ho đáng làm khi anh vợ của anh chết.

Tôi xuống phố để đổi cái khăn quàng của mẹ và lang thang quanh thành phố, và sau một hồi tôi thấy mình đang khóc trên thang cuốn ở Brown Thomas, vốn chỉ là một cửa hàng. Và điều khiến tôi khóc là chuyện chẳng có gì ở đây mà tôi không mua được. Tôi có thể mua mền gối, hoặc tôi có thể mua một cái giường. Tôi có thể mua quần jean xịn cho mấy đứa con gái hoặc áo khoác Miu Miu cho tôi, chỉ cần trông nó không quá hộp. Tôi có thể mua những hũ chứa thức ăn bằng nhựa hiệu Brabantia mà tôi đang nhìn chăm chăm trên tầng ba này, mà tôi có thể thực sự cần tới để đựng mì sợi và gạo, đậu lăng và hạt bí ngô và đủ thứ hàng khô khác, nhất là những thứ chẳng bao giờ được nấu hay sử dụng và cứ sống trên tầng kệ cao nhất của tôi. Tôi thử tính. Tôi có nên lấy một cái để đựng bột ngũ cốc vốn đã nằm nguyên trong bao bì suốt năm năm rồi, chờ đến một ngày chúng tôi cần đến tất cả các thực phẩm khô mà chúng tôi mua được chăng? Còn mớ hạt đậu mỏ thì sao? Những hũ này được bán nửa giá. Tôi cần chín cái, tôi nghĩ. Tôi bắt đầu chất chúng vào khuỷu tay trái khuỳnh ra của tôi, khóc thêm một chút nữa, khi tôi tưởng tượng lũ lụt, dịch bệnh và bom nguyên tử nhốt chúng tôi trong nhà, buộc chúng tôi phải ăn bột ngũ cốc trữ đã năm năm. Nếu có ai hỏi, tôi có thể bảo họ rằng tôi khóc cho buổi tận cùng của thế giới. Và đột nhiên tôi muôn tung cả chín cái hũ Brabantia lên không trung và gào lên, hoặc đi lại phía quầy tính tiền và trút sạch cái túi của tôi lên mặt quầy, đoạn nói, Còn dân Phi châu đang chết đói thì sao, bụng ỏng ra mắt thì chảy mủ? bởi vì tôi có thể mua bất cứ gì trong cửa hàng này như thường. Anh tôi vừa mới chết vậy nhưng tôi có thể mua bất cứ gì như thường.

“Mẹ cần một thử thách,” Rebecca nói, một cách nghiêm nghị, mới lên tám.

Và tôi nói, “Chắc rồi, chẳng phải mẹ có con sao?”

Chúng có là con ngoan không? Chúng có là những con người đứng đắn không? Đại thể là thế. Tuy Emily hơi giống một con mèo, và bọn mèo, tôi luôn nghĩ, chỉ nhảy vào lòng bạn để kiểm tra xem bạn có đủ nguội, vào thời điểm đó, để ăn chưa.

Đôi khi tôi thắc mắc về Michael Weiss - liệu có phải anh cũng đã chịu nhượng bộ, chung sống cùng một bà vợ thích hàng cao cấp, và những đứa con sống trong giấc mơ trung lưu, nhưng với niềm khao khát, như cặp của tôi hay không. Và tôi cảm thấy anh có thể xoay xở được chuyện đó; anh vẫn có thể giải quyết thế giới của màu hồng, của lòng ưa thích những con búp bê Barbie nhưng không nhiều lắm, và mua chúng, hoặc chẳng buồn mua chúng.

Liam chẳng bao giờ vào trong một cửa hàng.

Nên, để tỏ lòng trân trọng Liam, tôi trả những cái hũ về chỗ cũ và lái xe về nhà, chỉ rõ mọi thay đổi cho anh, do anh giờ đã chết.

“Nhìn hàng đèn đường kìa!” tôi nói.

Anh không chắc chắn.

Tôi thường làm thế khi anh còn sống, thực sự: tất cả những thay đổi và bực bội nho nhỏ, bãi đậu xe cho cư dân, nạn kẹt xe, bảy triệu trụ chóp màu cam từ đây tới Kinnegad, tất cả những chuyện đó tôi chỉ ra cho anh, bởi vì anh sống cách đây năm trăm dặm. Và tuy anh trở về đây theo một cách thất thường và đi nghỉ ở miền Tây, tất cả những thay đổi này đã diễn ra mà không có anh. Và tuy chẳng chuyện gì trong số đó có ý nghĩa gì nhiều, tôi vẫn buồn trước cái kiểu anh bị tụt lại đằng sau. Liam tồn tại trong thập niên bảy mươi, một cách nào đó. Anh có thể, thực tế, đã mang chất toàn cầu hơn chúng tôi - nấu cà ri ngay tại London, có đủ loại bạn bè ly kỳ - nhưng khi về nhà, anh luôn có vẻ hơi cổ lỗ, một anh nhà quê. Ông anh di trú của tôi trở thành một con ma kiểu xưa, và khi anh chết, tôi đi cho anh đôi ủng cao su mòn vẹt, trong khi đất nước Ireland thập niên bảy mươi nhúng ngược vào thập niên năm mươi trong tâm trí tôi.