Chương 30
Tôi cứ tưởng ngôi nhà sẽ chật ních, nhưng Bea lắc đầu nhè nhẹ bên cửa.
“Chỉ chúng ta thôi, thật đấy,” chị ấy nói. “Vài hàng xóm.”
“Thế chị chờ đợi gì?” tôi muốn nói. “Ai sẽ tới nhìn vào một cái xác trong phòng khách của chị, khi mà chẳng có lấy một ly rượu vang tử tế nào trong nhà?” Nhưng tôi không nói thế. Tom ngay sau lưng tôi. Anh đã nắm khuỷu tay tôi, dùng nó như cần điều khiển để lái tôi đi vòng qua chị, và lẽ ra tôi đã khó chịu, nhưng kiểu nắm của anh thật cổ xưa. Không ai còn nắm bạn như thế nữa, ngoại trừ Frank ở chỗ tôi làm, dân đồng tính, nay đã chết.
“Tất cả là ở cách nhìn,” có lần anh nói thế, khi đưa tôi tới làm quen với buổi tiệc tùng tập thể dễ sợ nào đó. Và, Frank tội nghiệp, tôi nghĩ. Tại sao tôi không than khóc cho Frank? Và tôi nhận ra, đột nhiên và với niềm tin mạnh mẽ, rằng tôi phải trải thảm trên lầu, Frank chắc hẳn sẽ ủng hộ điều này. Và kiếm một người lau dọn nữa. Tôi phải kiếm một người lau dọn để đối phó với mớ việc vặt tăng thêm này. Rồi tôi nhớ đến chứng suyễn của Rebecca - như tôi luôn nhớ ngay thời điểm này - và trước khi nhớ xong điều này tôi đã nhìn vào cái xác của Liam trong phòng trước.
Mình gặp nhau trước đây chưa?
Tôi có thể thấy chính xác cái màu của tấm thảm mới mà tôi muốn. “Màu củi mục”, hình như họ gọi là vậy.
Sao anh cứ theo em khắp nơi vậy?
Căn phòng hầu như trống trơn. Không có ai trong đây để tôi trao đổi về bộ phổi của con cái và màu thảm, về cách đan dệt và thắt nút và cỏ biển hoặc các tỷ lệ len trong thảm. Chết hay sống. Liam chẳng quan tâm về những chuyện như vậy. Tôi ngồi xuống. Người ta đã mặc cho anh bộ đồ xanh sậm và sơ mi xanh dương - như một tay Garda. Chắc là anh thích thế.
Ai mặc cho anh vậy?
Cậu thanh niên người Anh làm nhà đòn, với cái miệng đầy đặn và tai có xỏ lỗ; nói chuyện qua di động với bạn gái trong khi nhấc cái đầu nặng nề lên để luồn cà vạt vào.
Bộ com lê này, tôi tin chắc, sẽ có trong hóa đơn.
Tôi những tưởng quan tài được đặt cắt ngang phòng, nhưng không đủ chỗ để làm thế. Đầu Liam quay về phía những tấm màn kéo kín và có những cây nến phía sau anh, trên những giá cắm cao. Từ chỗ đang ngồi tôi không nhìn rõ được mặt anh. Gỗ quan tài xiên góc xuống, cắt ngang gò má anh. Tôi thấy được chỗ trũng trên mặt xương nơi đáng ra phải có con mắt của anh, nhưng tôi không đứng lên để xem chỗ trũng ấy có được lấp đầy đúng cách không, hoặc mí mắt có khép lại không. Chỗ nâng lên và hạ xuống này của mặt xương là tất cả những gì tôi muốn nhìn thấy ở anh, vào lúc này, xin cám ơn nhiều.
Các ghế dựa và trường kỷ đã được đẩy ra sau, nhưng bà Cluny, sau khi dừng lại để cầu nguyện, đã chọn ngồi trên một trong mấy cái ghế cứng đem dưới nhà bếp lên. Kitty đang túc trực bên bức tường đằng kia để phòng trường hợp một người phân ưu bị bỏ lại một mình đầy bất tiện bên cái xác, trong trường hợp cái xác bị bỏ lại một mình một cách bất tiện. Nó nhìn tôi khi tôi ngồi lên tay tựa của trường kỷ và nó đảo mắt không tán đồng. Một lát sau nó qua chỗ tôi và nói, lặng lẽ, “Chị ở lại không?”
“Không,” tôi bảo nó. Nó không hiểu. Toàn bộ sự vụ giờ này đã kết thúc với tôi, còn hơn cả kết thúc nữa. Tôi chỉ muốn đem chôn cái của mắc dịch này cho xong việc.
Tôi nói, “Chị sẽ gọi Ita hay ai đó. Không. Chị không ở lại được. Chị còn mấy đứa nhỏ.”
“Ồ, mấy đứa nhỏ,” nó nói, hơi lớn tiếng.
“Phải, em biết đó. Mấy đứa nhỏ.”
Và quả thực Rebecca bỗng nhiên xuất hiện trong phòng, lui dần về phía tôi cho tới khi nó đụng vào đầu gối tôi.
“Ba con đâu rồi?”
Khi nhìn qua, tôi thấy Emily đu khỏi tay nắm cửa, mắt cứ dán vào quan tài, giày nó đá vào mặt sơn.
“Con thôi đi,” tôi nói.
Nó không thôi.
“Con thôi để lại vết trầy trên cửa nhà bà ngoại đi.”
Rồi tôi nhận ra chúng tôi đang ở đâu.
“Không sao đâu,” tôi bảo nó. “Cậu ấy chết rồi.” Khi nghĩ về chuyện này, tôi thấy đó chẳng phải điều dễ chịu nhất mà tôi có thể nói ra.
Trong một cử động đột ngột của chiếc váy xòe và mái tóc màu cát Rebecca trở lại nơi cửa, và cả hai lại biến đi. Tôi nghe chúng cười ở tiền sảnh, rồi chạy lên cầu thang, tuy chúng không được chạy lên lầu. Tôi bỗng thấy nổi sùng lên với Tom, anh cứ nhất định mang bọn trẻ theo nhưng chẳng buồn bỏ công trông nom chúng, không bỏ công cho dù có một cái xác trong nhà, sau đó có người lại nhấn vào nút câm, và phải mất một lúc tôi mới nhận ra Kitty đã đi khỏi và tôi là người nhà Hegarty duy nhất còn sống ngồi lại trong phòng này. Tôi không biết tình trạng này kéo dài bao lâu, nhưng tôi cảm thấy nó là một quãng thời gian dài, dõi theo cơn hoảng loạn thì thào của bọn con gái khắp trên lầu - buộc chặt vào chúng, bất cứ nơi nào chúng đến, buộc chặt vào cả mẩu rác thải này trong phòng trước. Nhà sau đầy âm thanh của những người tôi không muốn gặp, và bởi thế tôi ở nguyên tại chỗ, quyết định không phàn nàn.
Nên Ernest thấy tôi trong tình cảnh như thế khi anh bước vào khung cửa, vừa xuống khỏi máy bay. Có thể thấy rành rành anh vẫn là chính anh – mất một lát tôi mới thôi không thấy anh, ông anh của tôi ngày xưa, mà lui lại để xem anh trông ra sao, hồi này. Anh trông rất ổn, tôi nhận thấy. Quần áo anh hơi buồn bã, nhưng bên trên cái áo có mũ trùm và cái quần polyester là cái đầu của anh, lớn và khỏe mạnh và càng đẹp đẽ hơn qua năm tháng. Chính là cái đầu của ông ngoại Charlie, tôi nhận ra, đang sáng lên trong ánh nến, và đôi bàn tay to lớn của ông ngoại Charlie đang nắm một tay tôi, và tôi không biết, khi tôi đứng đó còn Ernest ôm siết tôi vào người anh, liệu đây là một cái ôm siết của một tu sĩ hay ông ngoại - dù sao cũng không chạm ngực: bộ ngực nhỏ bé của tôi, trong cú ôm này, không cản trở.
Anh làm vậy cách nào?
Đó là việc của anh. Anh tôi có một con tim được rèn luyện; với anh trắc ẩn là một bắp cơ; anh nghiêng đầu khi ta nói. Anh hầu như không nhìn vào quan tài, mà thay vào đó chú tâm vào cái ánh trong mắt tôi. Rồi anh hơi quay về phía cái xác.
“Đừng báo cho ai trong nhà biết anh đã về, được không?” anh nói. “Khoan hãy báo,” và ra hiệu bảo tôi, bằng cái gật đầu, hãy ra khỏi cửa. Và dĩ nhiên, đây là lý do tôi cũng ghét anh luôn, trong cái kiểu thẳng thắn thầy tu của anh - trò giả dối này. Tuy nhiên, Ernest luôn dễ thương với tôi, hồi chúng tôi đang lớn. Chúng tôi cách nhau một khoảng vừa đẹp.
Ra ngoài tiền sảnh, tôi lắng nghe những giọng nói trong bếp - một giọng Mỹ sắc nét, ắt là của Ita. Và tiếng vợ của Mossie suỵt bảo mấy đứa con tuyệt hảo của chị ta im lặng.
Tôi quay người lên lầu tìm lũ con của tôi.
“Rebecca! Emily!”
Cầu thang hẹp, và dốc hơn tôi nhớ. Tôi nghe được tiếng chúng cười, phía trên tôi, giống đám trẻ núp trong những nhánh cây, nhưng khi tôi lên tới chiếu nghỉ thì chúng đã biến mất.
Lâu lắm rồi tôi mới lên tới đây. Đây là tầng của bọn con gái: Midge, Bea và Ita ở phía sau; tôi, Kitty và Alice ở phía trước, nhìn được cảnh hoa đào nở, và những dây điện nghiêng nghiêng, và một bóng đèn đường trắng. Hồi đó nó không có vẻ nhỏ. Túi đi chơi qua đêm của Kitty nằm trên giường của nó, hai cái giường kia trống trơn. Vây lấy cửa sổ là một lô lộn xộn những dãy kệ, những cửa tủ nhỏ mà cha tôi đóng cho chúng tôi bằng ván trắng của hãng MFI. Vài cuốn sách giáo khoa còn lại trên một tầng kệ; không cuốn nào bằng tiếng Anh cả - có lẽ vì thế mà chúng không bị vất đi. Cuốn Das Wrack (Vụ đắm tàu) của Siegfried Lenz, và những truyện ngắn của Guy de Maupassant, một truyện có tựa “La Mer” (Biển cả), trong đó, như tôi nhớ lại hồi còn đi học, một thủy thủ bảo quản cánh tay bị đứt lìa của anh trong thùng muối để mang nó về nhà. Những cuốn sách này trông như chúng bị làm bẩn chứ không phải bị đọc nát, nhưng quả là bọn tôi có đọc:
Tá Tír na nÓg ar chúl an tí
Tír álainn trína chéile
(Ngay ở sau nhà là Xứ sở tuổi xanh
Một miền đất xinh đẹp và điên đảo)
Tôi quay người thì thấy mấy đứa con gái ngay cửa.
“Nào, xuống thôi.” Và những đứa con này, vốn chẳng bao giờ làm một việc gì tôi bảo, quay người và đi trước tôi xuống cầu thang. Tới chân thang, Rebecca nắm tay tôi dẫn vào bếp, như một người khổng lồ bị lạc mất mà nó vừa tìm thấy ở tiền sảnh.
Có một chuyện mà Mossie vẫn làm với bàn tay chúng tôi. Anh sẽ siết những đoạn xương mảnh cho đến khi ta rú lên, chà khớp đốt ngón tay lên nhau, trở qua trở lại. Anh ở đó trong bếp, đứng với Tom cạnh bàn: hai nhà chuyên môn trong căn phòng, nói chuyện đàn ông với nhau. Tại sao đàn ông chẳng bao giờ ngồi xuống, tôi nghĩ, rồi nhận ra rằng tất cả ghế đều ở trong kia với cái xác. Tôi nhìn quanh. Ita dựa lưng vào bồn rửa. Trông chị nhỏ hơn. Ngay khuôn mặt chị trông cũng nhỏ hơn - có lẽ chính ánh sáng cửa sổ đằng sau đã làm chị bị thu nhỏ như thế. Nhưng chị giữ được mình trẻ quá lâu và, khi hôn chị, tôi có một cảm giác buồn nôn về thứ da thịt được bôi sáp ngay phòng kế cạnh.
Rồi hai bên hai đứa em sinh đôi ôm lấy tôi - vì chúng luôn làm vậy, luôn tươi vui, và khó nhìn ra. Tôi nhìn quanh tìm Kitty và thấy nó ngoài vườn, đang hút thuốc. Alice bí ẩn không có ở đây. Có lẽ điên, tôi chợt nghĩ. Alice bí ẩn có lẽ lúc nào cũng điên.
Mấy đứa con của Midge đứng thành một nhóm và tôi quay về phía chúng một cách nhẹ nhõm, nhưng Bea ném cho tôi một cái nhìn, hất tóc ra sau vai.
Được rồi. Được rồi.
Tôi đi lại chỗ mẹ tôi đang ngồi rồi đứng cạnh cánh tựa đầu của chiếc ghế bà ngồi trong khi một người hàng xóm đang nói nốt những lời lễ nghi.
“Dạ. Cám ơn. Dạ.”
Người hàng xóm đó, bà Burke, đang cúi xuống thấp, nói một bí mật to lớn và đặc biệt nào đấy vào tai mẹ tôi; vuốt tay bà, vuốt đi vuốt lại.
“Dạ,” mẹ tôi lại nói. “Cám ơn. Dạ.”
Khi bà Burke rời đi, tôi bước tới để hôn mẹ tôi.
Điều đó đã xảy ra. Bà ngồi xem ti vi suốt mười ngày qua, chờ đợi một điều nay đã đến thực sự và trọn vẹn. Nó đã, như người ta nói, “giáng trúng bà”. Như một tia sét. Con người bà không còn lại là mấy.
Luôn mờ ảo, mẹ tôi bây giờ hoàn toàn tàn tạ. Tôi nhìn vào mắt bà và cố tìm lại bà, nhưng bà bảo vệ bất cứ gì còn sót lại của bà ở sâu bên trong. Bà nhìn vào thế giới từ chốn xa xôi này, và cho phép toàn bộ chuyện này xảy ra, dù không hoàn toàn rõ nó là gì. Thật khó xác định bà tiếp nhận được bao nhiêu, nhưng cũng có một sự bình yên ở bà.
“Ô. Xin chào,” bà nói với tôi, và có một kiểu tình yêu mơ hồ trong giọng của bà - dành cho tôi, cho cái bàn bày sẵn thức ăn, cho mọi người ở đây.
“Mẹ,” tôi nói, và khom xuống hôn má bà, và tuy chẳng bao giờ giỏi hôn hoặc giỏi được hôn song bây giờ bà không tránh né tôi, mà nghiêng mặt lên như một cô bé mới tập tễnh giao tế để nhận đôi môi chúm lại kiểu trẻ con của tôi. Tôi e rằng bà đã hoàn toàn quên tôi, nhưng rồi bà cầm tay tôi, đặt nó ngay ngắn giữa hai bàn tay nhẹ tênh của bà, và bà ngước nhìn tôi.
“Hai đứa bay lúc nào cũng là bạn tốt,” bà nói.
“Dạ, mẹ.”
“Bay luôn tốt với nhau, phải không? Bay lúc nào cũng là bạn tốt.”
“Cám ơn, mẹ. Cám ơn.”
Bàn tay Tom ấm áp trên đoạn xương cùng cột sống của tôi. Ít nhất tôi nghĩ đó là anh, nhưng khi tôi ngoảnh đầu lại, anh không có ở đó. Ai đã chạm vào tôi? Tôi đứng thẳng dậy nhìn tất cả mọi người. Ai đã chạm vào tôi? Tôi muốn nói to câu đó ra, song những người nhà Hegarty và đám vợ Hegarty và con cái Hegarty đều cách xa tôi ít nhiều: họ di chuyển, họ nói chuyện, họ ăn tiếp, không hay biết.
“Ở đó mẹ ổn không, mẹ?” tôi nói, để cáo từ.
“Mẹ cần gặp lũ nhỏ,” bà nói.
“Gì ạ?” tôi hỏi. “Cái gì?”
“Lũ nhỏ,” bà lặp lại. “Mẹ cần gặp lũ nhỏ.”
“Chúng ở trên lầu, mẹ ạ,” tôi nói. “À không. Chúng ở đây. Con sẽ đi tìm chúng, mẹ. Con sẽ tìm chúng cho mẹ.”
Rồi sau cùng, Tom cũng ở bên tôi, thực sự. Anh cúi người cầm tay bà trong nỗi thương cảm lặng lẽ, rồi thẳng người lên cầm lấy khuỷu tay tôi và xoay tôi hướng về phần còn lại của căn phòng.
“Anh vào đó chưa?” tôi nói.
“Anh ấy trông,” Tom nói. Rồi anh ngừng lại. “Không giống anh ấy.”
“Em chẳng biết được,” tôi nói.
Những ngón tay anh nắm chặt cánh tay tôi. Chúng rất tự hào về bản thân chúng, những ngón tay ấy của anh. Chúng không để tôi bị chút hồ nghi nào. Đây là người đàn ông sẽ sớm đéo tôi, để nhắc tôi nhớ rằng tôi vẫn đang sống. Trong lúc đó anh nói, “Trông anh ấy cứ như tay môi giới địa ốc.”
“Ấy là do cái áo,” tôi nói.
“Ừm. Nó đến với tất cả chúng ta.”
Rồi mấy đứa bé đến: Rebecca, Emily, và Róisín, đứa này là con út của Mossie - thường gặp thế, mà ít nghe tiếng thế. Một đứa dễ thương vậy. Nó đứng ngay phía trước tôi mà đong đưa cái bụng.
“Cháu sẽ chào dì của cháu chứ?” tôi nói. “Cháu sẽ nói chào, hay sẽ chút chít, như con chuột nhắt? Chút chít. Chút chít.”
Tôi véo mông nó bằng hai bàn tay già phù thủy. Rồi tôi đứng thẳng lên thì thào với Tom, “Mẹ nói cần gặp lũ nhỏ.”
“Tất nhiên rồi.”
“Anh có bao giờ câm đi không,” tôi nói.
“Cái gì?”
“Tại sao mẹ cần gặp lũ nhỏ?”
“Ờ,” Tom nói.
“Lũ nhỏ đâu phải để làm chuyện đó,” tôi nói, rất gay gắt. Và anh nhìn tôi với vẻ quan tâm bất ngờ, trước khi xoay vai đám con gái lại, để đẩy chúng tới chỗ bà ngoại.
“Hôn bà ngoại đi, nào, tiến lên.”
Bọn con gái đứng trước mẹ tôi. Có khả năng Emily sẽ chùi miệng ngay trước mặt bà - nó không thích miệng hôn ướt, nó nói, chỉ thích những nụ hôn khô “giống của ba”. Trên thực tế, không có nước nôi gì trong vụ này cả. Mẹ tôi giơ tay đặt lên đầu Rebecca, rồi bà quay qua, hết sức nghiêm trang, làm tương tự với Emily, nó nhận cử chỉ này với đôi mắt mở to.
Tôi quan sát cảnh tượng này như từ một chỗ rất xa. Cứ như tôi chẳng liên quan tới đứa nào trong bọn. Nhưng cũng có một tiếng gầm trong máu tôi.
“Thế chúng để làm gì?” Tom nói.
“Chúng nó chẳng để làm gì cả,” tôi nói. “Chúng nó chỉ vậy thôi.”
Và tôi cũng muốn thật vậy.
Rebecca trở lại với tôi. Mặt nó đầy nước mắt còn rưng rưng và tôi dẫn nó ra ngoài một lát. Căn phòng kia thì dành cho quan tài nên chúng tôi chẳng có chỗ nào để đi ngoại trừ cầu thang, nơi chúng tôi ngồi trong khi đứa con gái dịu dàng, đãng trí của tôi khóc trong lòng tôi vì điều gì đó nó không hiểu. Rồi nó mạnh mẽ lên một chút.
“Con muốn về nhà,” nó nói, vẫn cúi mặt xuống.
“Chút xíu nữa thôi.”
“Vậy không công bằng. Con muốn về nhà.”
“Sao lại không công bằng?” tôi nói. “Có gì không công bằng trong chuyện đó?”
Đang tuổi thanh xuân, nó thấy bị chấn động vì sự cận kề của cái chết. Vụ này đang làm hỏng những ý tưởng của nó về việc tham gia một ban nhạc nữ, có lẽ thế - hoặc tôi nghĩ vậy, với một ý muốn bất chợt là đưa nó vào tận quan tài, đẩy nó quỳ xuống và buộc nó xét tới Tứ Chung*.
•
The Four Last Things: người Công giáo gọi là Tứ Chung, tức bốn vấn đề cuối đời người - cái chết, cuộc phán xét, thiên đàng và hỏa ngục.
Chúa ơi. Ý nghĩ này từ đâu ra vậy? Tôi phải bình tĩnh lại.
“Nó không liên quan tới con, được chưa? Người ta vẫn chết, Rebecca à.”
“Con muốn về nhà!”
“Còn mẹ muốn con người lớn hơn một chút ở đây. Được chứ?”
Và chuyện cứ thế.
“Con còn không thích cậu ấy nữa,” nó nói, trong tiếng thút thít kinh khủng cuối cùng, và việc đó làm tôi bật cười lớn đến độ nó ngưng khóc mà ngước nhìn tôi.
“Mẹ cũng không thích, cục cưng ạ. Mẹ cũng không thích.”
Emily đã đi ra tìm tôi, theo sau nó là Tom. Nên chúng tôi đứng dậy và phủi bụi rồi quay người, một lần nữa. Tôi có con cái quanh tôi và ông chồng bên cạnh, và tôi bước vào dự một cuộc họp mặt gia đình khác nữa; mỗi cuộc đều có mặt bánh mì gọt vỏ ngoài kẹp thịt heo muối, và bơ, và rau cải siêu thị thái nhuyễn, và bánh quy kẹp phó mát rồi thì hành phụ thêm cho phần ăn. Có xúc xích ghim tăm và những vuông bánh nướng thập cẩm, và rau trộn trái cây cho Mossie, người luôn than phiền về chất béo chuyển vị. Có bánh quy Ritz với pa tê cá hồi và một con tôm đặt bên trên, những món khác với một nhánh rau mùi trên một bệt phô mai dạng kem. Có bánh khai vị chay houmous cho Kitty hoặc Jem, một trong hai đứa đó ăn chay tuần này, trong một bộ ba món nước xốt để dầm trong đó có xốt làm bằng trái bơ và xốt bằng trứng cá. Có món cá hồi hun khói cho tôi, món mì bò xốt cà chua của Bea, và món nước quả đông ly kỳ rung rinh trong những chén thủy tinh nhỏ, do mẹ tôi làm với sự cẩn trọng lặng lẽ và để cho đông lại từ tối hôm trước.
Không có rượu vang.
Không, tôi nói sai. Lần này, lần đầu tiên - có lẽ để tưởng nhớ thói quen uống rượu tràn của Liam - có hai chai vang trên bàn; một đỏ, một trắng. Mọi người biết chúng có ở đó, và không một ai, nhưng không một ai, định uống. Mossie cố rót một ly cho bà Cluny, bà này gần như xua anh đi bằng cái giỏ xách của bà. “Không, không, tôi không uống được,” bà ấy nói. “Không, dứt khoát không.”
Thật tuyệt khi ta gần bốn mươi, tôi nghĩ, và bám sát món nước cam có ga.
Jem vào để lấy thêm mấy cái ghế từ phòng bên cạnh, còn Bea chuyền các đĩa cho mọi người, và chúng tôi bắt đầu dùng bữa. Tôi cố giữ bọn trẻ trong vòng kiểm soát được một lát, rồi thì tôi bỏ mặc. Tôi dựa vào tường nhìn cả nhà ăn.
Khi bọn tôi còn nhỏ, Mossie thường khăng khăng nhai trong im lặng. Anh sẵn sàng ngồi với chúng tôi, anh nói, và chúng tôi có thể nói chuyện đến thỏa thích, nhưng anh lại không chịu nổi tiếng ồn của thức ăn bị nghiền nát trong miệng chúng tôi, và bất kỳ tiếng húp xì xụp nào, thậm chí tiếng nhóp nhép nhỏ nhất, cũng khiến ta bị vỗ một phát vào đầu. Anh coi chừng bàn ăn trong suốt bữa, nhưng anh di chuyển nhanh và không cần nhìn. Tôi không biết tại sao chúng tôi lại chấp nhận chuyện đó - nó hẳn cũng vui nhộn - nhưng, nhìn gia đình tôi ngấu nghiến những món ăn tang lễ, tôi ít nhiều nhìn ra cái lý của anh.
Ernest, người khấn đồng trinh, thì trông đặc biệt kinh khủng. Ngay mẹ tôi cũng ăn với vẻ tham lam bất ngờ, cứ như nhớ ra được cách ăn thế nào. Đợt nhận biết bất ngờ nào đó khiến bà lướt từ cái bánh quy Ritz này sang cái kế tiếp, bà cản trở người khác, và họ, trong thoáng chốc, thấy buồn phiền. Các hàng xóm lấy chút ít vào đĩa của họ rồi đặt đĩa xuống, rồi thì, lát sau, họ quên mất chính mình đến mức cũng ngấu nghiến phần ăn. Một ông mà tôi dần dần nhận ra là chú ruột tôi đang lấy thức ăn cho mình bằng những ngón tay chuối mắn. Ông thao tác nhanh nhẹn một cách thực dụng, thích thú trước hàng ngũ những món chiêu đãi nho nhỏ, chăm lo việc đưa một lượng thức ăn đúng mực vào cơ thể mình trước buổi tối.
Cha tôi gốc ở hạt Mayo - ấy là muốn nói ông rời hạt Mayo khi mười bảy tuổi. Liam xúc động với miền Tây Ireland, nhưng tôi không nghĩ cha tôi cũng xúc động như vậy, và tôi cũng không. Nhưng tôi xúc động với chú Val của tôi - hoặc tôi thấy như thế. Tôi quan sát chú, thầm nghĩ, nếu tôi nhìn đủ chăm chú, tuổi thơ của tôi sẽ trở dậy để gặp chú. Tôi cũng muốn hiểu chú là loại đàn ông thế nào, do bây giờ tôi đã gặp nhiều đàn ông khác, trong thế giới rộng lớn ngoài kia.
Val là nông gia độc thân đã ngoài bảy mươi, nên chú hẳn, theo đúng lẽ, nửa điên rồi. Nhưng trông chú cũng khá linh hoạt. Và thông minh nữa. Mỗi lần chú chỉ làm một việc, đó là điều nổi bật ở chú. Chú chùi mấy ngón tay vào khăn giấy rồi tìm chỗ đặt nó xuống, và khi không tìm ra chỗ, chú vo tờ giấy lại nhét cẩn thận xuống dưới cái đĩa trống của chú. Rồi chú nhìn đứa này hoặc đứa kia trong bọn chúng tôi cứ như đang phỏng đoán về cuộc đời chúng tôi: chúng đã diễn ra thế nào và sẽ kết thúc ra sao. Chú Val yêu những đoạn kết. Chú đặc biệt yêu những vụ tự tử. Chú thường nói chuyện cặn kẽ với chúng tôi về các nhà hàng xóm, kể cho chúng tôi nghe ai tự bắn mình và ai dùng đến dây thừng. Chú kể cho Liam nghe câu chuyện về một ông trong vùng, ông này, khi vợ ông ta không chịu làm tình với ông ta, đã bật dậy đi lấy con dao trong bếp và tự thiến mình trước mặt bà vợ.
“Cả một dàn tập bắn,” chú nói. “Cả công cuộc bắn giết.”
“Chú Val,” tôi nói, bắt tay ông, thầm nghĩ mình có thể lên cơn hoảng loạn, chỉ vì ngửi phải cái mùi bộ quần áo của ông.
“Veronica, phải không? Chú rất tiếc. Nó là một đứa ngon lành. Chú nghĩ nó là đứa chú cưng nhất.”
“Dạ,” tôi nói.
“Nó là bầu bạn dễ thương, lúc nào cũng vậy.”
“Dạ.”
Tôi đã thương chú Val, tôi nhận ra, từ khi mới sáu tuổi.
“Anh ấy luôn thích thú mỗi lần đi thăm chú,” tôi nói. “Anh ấy tận hưởng chúng.”
“À phải,” chú Val nói. “Chúng ta đã cố hết sức.”
Và tôi chợt nghĩ ra rằng tôi không phải người duy nhất cố cứu vớt Liam - ông chú này cũng đã cố, và ông chú này, bị kẹt lại trong nông trại của ông ở mãi Maherbeg, sẽ luôn cảm thấy có tội vì ông đã không thành công. Lần đầu tiên từ “tự sát” lởn vởn trong không khí - cái kiểu tất cả chúng ta đã thất bại. Cho nên, cám ơn Liam. Cám ơn nhiều lắm.
Ita thò tay ra sau lấy ly nước chị đã đặt vào trong bồn rửa. Nó đã làm tôi rối trí suốt buổi tối - tại sao chị cứ giữ nó ở đó? Rồi tôi nhận ra nó không phải nước, mà là rượu gin. Thật ly kỳ. Trông chị vẫn như khi tôi vừa tới, tuy khuôn mặt chị hơi sưng và nghiêm nghị hơn. Còn có sự vụ về cái mũi của chị nữa, rõ ràng nó có một hình dạng khác, nhiều vẻ Mỹ hơn. Ita nhìn tất cả chúng tôi với vẻ giận dữ không che giấu. Có lẽ đó là do chúng tôi xấu xí đến thế. Tuy tôi khó mà phàn nàn - cái kiểu tôi phản ứng trước cảnh tượng những cái miệng nhà Hegarty chuyển động quanh thức ăn ấy.
Trong khi đó, Tom trở lại nói chuyện với Mossie. “Người duy nhất tỉnh táo, thực vậy, trong cả gia đình,” như anh nói với tôi, hằng năm, lúc nào đó khoảng lễ Giáng sinh. Và điều đó đúng, khi tôi nhìn anh, ông anh tôi quả tình trông rất bình thường, anh có một công việc tốt, một cô vợ dễ thương và anh gửi đi khắp nơi những bản tin lý thú báo cho chúng tôi biết gia đình anh sinh hoạt ra sao. “Một lời chào đón nồng nhiệt cho bé Darragh!!” Sự thật cần nói là Mossie đã chẳng làm gì loạn tâm thần suốt hai mươi năm qua. Nhưng Liam ở ngay phòng bên cạnh vẫn nói ha ha, khi Tom ông chồng dân chuyên môn của tôi lôi Mossie ông anh dân chuyên môn của tôi vào một câu chuyện chính trị gì đó về cái kiểu đất nước này ngày càng thịnh lên. Ha mẹ kiếp ha ha, cái xác phòng bên lại nói.
Tôi muốn uống say. Đột nhiên. Thật tai hại khi mong muốn cái thứ này vào đúng lúc này, nhưng không thể khước từ nó. Tôi muốn thoát khỏi con cái và chồng tôi để tôi có thể say bí tỉ đúng nghĩa một lần, bởi vì Chúa biết trước nay tôi chưa từng say bí tỉ đúng nghĩa. Và có Kitty trợn mắt nhìn tôi, từ bên kia phòng. Ita! Tôi di chuyển chầm chậm bên bồn rửa (vì rượu luôn hữu dụng khi ta muốn có lúc thoải mái).
“Chúng ta cần một chai gì đó. Có chai nào không, để lát nữa dùng?”
Và, qua hàm răng nghiến chặt, Ita nói, “Tôi sẽ đi xem.”
Có một sự chuyển động trong phòng. Đến giờ di chuyển, hoặc đi. Tôi phải nói chuyện với mấy đứa con gái của Midge, thật nhanh, trước khi chúng rời đi cùng với lũ con cái cùng những bé sơ sinh và bé mới tập đi kéo ở sau đuôi. Cháu gái Ciara của tôi có bầu năm tháng, mặt nó nổi đốm dữ dội trong cái nóng này.
Tôi khẽ chạm vào cánh tay nó và nó vuốt nhẹ cổ tay tôi, vì phụ nữ có thai phải đụng chạm và được đụng chạm, và cái nhìn của tôi, tôi biết, thì rất nhiệt thành khi tôi nói, “Cháu đang ngủ hả? Cháu có cái giường mới chưa?” Ciara xoa bụng nó, rồi vươn qua tôi với đôi bàn tay lại run rẩy đợt nữa.
“Chúa ơi, cuộc sống trên tấm thảm,” nó nói.
“Thằng chồng của cháu,” tôi nói. “Nó đáng bắn bỏ.”
“Ấy là do cái lưng anh ấy.”
“Phải, phải,” và cả hai đứa tôi bật cười - một cách tục tĩu, cứ như nãy giờ chúng tôi nói về tình dục.
Tom ở bên tôi, thích toàn bộ sự vụ này. Tôi quay qua chào chú Val, trông ông hơi hoảng loạn, đang được bà Cluny dìu sang nhà kế bên. Khi Ciara sắp ra về, Tom sắp xếp túi tã lót cho nó và đưa Brandon, đứa con mới chập chững biết đi, về chỗ nó. Rồi anh quay lại chỗ tôi.
Anh nói, “Em còn nhớ lúc em có bầu Rebecca và em không tới nghĩa trang - đám ma của ai vậy nhỉ? Dù thế nào em cũng không đi, vì đứa bé có thể bị chân vòng kiềng, em nói vậy.”
“Cam reilige.”
“Cái gì?”
“Người ta gọi nó vậy. Bằng tiếng Ireland.”
“Em ngộ thật,” anh nói.
“Phải,” tôi nói. “Em là thứ buồn cười.”
Cam reilige là tiếng Ireland để chỉ sự vặn vẹo của nấm mộ.
Lúc đó tôi đi khỏi chỗ anh, cảm thấy, một lần nữa, bóng dáng của một đứa con trong tôi, cuộc đột kích của tương lai trong bụng tôi, đen ngòm và công khai.
Tôi đặt tay lên bụng. Nó giống một cơn đau, gần như vậy.
“Dù sao thì nó cũng hữu hiệu,” Tom nói, vẫn bên vai tôi. “Nó có cặp giò dễ thương.”
Tôi không cần anh nói với tôi điều đó. Tôi quay lại để nói thế với anh. Tôi không cần anh nói với tôi điều đó, nhưng thay vì thấy chồng tôi, tôi chỉ thấy cái vòng rộng mở của con mắt anh. Nếu chúng tôi muốn có một đứa con nữa thì bây giờ nó đang chờ chúng tôi. Tôi hầu như thấy được nó. Nên nó chẳng phải chỉ lỗi là của anh, chuyện tình dục xảy ra sau đó. Nó không hoàn toàn là lỗi của anh, cái việc tôi không thích thú chuyện tình dục.
Trong khi đó anh gật đầu với tôi. “Anh sẽ trông đám trẻ. Bất cứ lúc nào. Hãy về nhà bất cứ lúc nào.”
“Đừng thức khuya,” tôi nói.
Và anh nói, “Anh sẽ cố.”
Đó là đám tang chị Midge của tôi, thực vậy, còn tôi thì bự như một cái nhà. Cháu gái Karen của tôi đã sinh nở một tháng trước tôi, ở tuổi hăm mốt. Tôi nhớ mình ngồi trong nhà thờ nhìn đứa bé nhỏ xíu, ướt át, ọ ẹ trên vai mẹ nó, một băng cột tóc màu trắng quanh cái đầu nhỏ xíu, mới tinh của nó. Anuna - mọi đứa cháu của Midge đều có những cái tên ngớ ngẩn - bây giờ được mặc cái áo khoác phồng màu đỏ đắt tiền, một đứa con gái hấp dẫn, với con mắt dễ sợ nhà Hegarty; lạnh và hoang dại và xanh lơ.
“Chúc ngủ ngon, Karen. Nhớ coi chừng nó.”
Bây giờ chúng đang nhấp nháy với nhau từ hai đầu phòng, xanh với xanh, khi những người lạ và vai phụ cáo từ. Bea kéo mẹ tôi ra khỏi ghế.
“Mẹ mệt lắm đấy, mẹ.”
“Ờ.”
“Lại đây con đưa mẹ lên lầu.”
“Ờ.”
“Con sẽ mang trà lên.”
Nhưng có gì đó bà muốn làm trước khi đi. Mẹ thoát khỏi nắm tay cầm giữ của Bea và đến bên bàn. Bà đặt hai tay lên mặt gỗ, nên mọi người biết phải ngưng nói chuyện. Bằng giọng dịu dàng, ngọt ngào, bà nói, “Ông ấy chắc rất tự hào về tất cả các con.”
Chúng tôi biết bà ám chỉ, không phải Liam, mà là cha chúng tôi. Bà nhớ lẫn lộn các đám tang với nhau. Hoặc có lẽ mọi đám tang bây giờ là cùng một đám tang.
“Ông ấy rất, ” bà nói với niềm tin khủng khiếp. “Ba các con rất tự hào về tất cả các con.”
Bea xoay bà đi, để rời phòng. “Đủ rồi, mẹ.”
“Ngủ ngon,” bà nói.
“Ngủ ngon, mẹ,” chúng tôi nói, theo một kiểu lầm rầm gia đình.
“Ngủ ngon nghe.”
“Ngủ yên nghe, mẹ.”
“Hãy nghỉ một chút.”
“Ngon ngon,” hoàn toàn mất nhịp điệu, giống những giọt mưa đầu tiên.
“Coladh sámb,” Ernest nói, ngay bên cửa, và bà quay về phía anh để nhận động tác chúc phúc, mà ông anh tôi - gã khốn kiếp đạo đức giả dối trá trong kẻ vô thần tu xuất - chẳng ngần ngại làm ngay (bằng tiếng Ireland nữa chứ) và bà sung sướng bước đi. Ít nhất “sung sướng” là cái vẻ trên mặt bà. Sung sướng. Bà hài lòng với những con người bà tạo ra. Bà sung sướng.
Chúng tôi im lặng một lát sau khi bà đi. Mossie ngồi. Ita hớp một ngụm thứ nước của chị, rồi miệng chị rúm sâu vào, trong lời cự nự nào đó giữa cuộc trò chuyện thầm lặng đang diễn ra trong đầu chị. Kitty châm một điếu thuốc, việc đó gây chút bực bội cho mọi người. Và tôi nghĩ, Mình không bao giờ nói sự thật với mẹ. Mình không bao giờ nói sự thật với bất kỳ ai trong số họ.
Nhưng tôi nên nói gì? Một người chết thò tay mình vào cửa quần của một người chết xa hơn hồi ba mươi năm về trước. Chắc chắn còn có những chuyện khác đáng nói tới hon. Có những điều khác nữa cần được tiết lộ.
Nhưng như chuyện gì? Như chuyện gì?
Tôi bắt đầu giúp Bea rửa chén đĩa, trong khi Kitty bưng một chồng đĩa tới bồn rửa.
“Mày làm gì vậy?” Bea nói với nó.
“Dọn dẹp,” Kitty nói.
“Ô.”
“Cái gì?”
“Ô. Không sao, xin mời. Xin mời dọn dẹp.”
“Biến đi.”
“Không, luôn có một lần đầu.”
“Ôi, biến đi.”
“Được rồi, vét nó trước đã, được không? Vét nó đi, được không? Vét nó, và chất nó đằng kia.”
Kitty nâng cái đĩa lên khỏi đầu tựa như sắp giáng nó xuống sàn. Không ai nhìn. Nó giữ cái đĩa ở đó một hồi lâu - rồi, với một cú hất đầu, nó bưng món đó, nâng cao một cách trịnh trọng, tới cái thùng. Nó tiến hành vét đĩa, và rồi nó không kìm được mà tống toàn bộ vào thùng rác, cái đĩa, thức ăn các thứ.
“Chúa ơi!” nó gào lên, nhìn con dao còn lại trên tay nó, cứ như nó đang nhỏ máu. Tôi liếc lên trần - Mẹ vẫn còn di chuyển loanh quanh trên lầu.
“Ô ChúaơiChúaơiChúaơi!” Kitty kêu lên, quẳng cái vũ khí giết người ấy vào thùng, đoạn nó bỏ ra vườn để hút cho hết điếu thuốc.
“Bea,” tôi nói.
“Gì,” Bea nói, rất gắt, khi chị nhặt chén đĩa ra khỏi thùng. “ Gì? ”
Và tôi biết ý chị muốn nói gì. Chị muốn nói, Sự thật thì ích gì cho chúng ta lúc này?
Ita từ phòng quàn xác bước vào và nện một chai whisky xuống giữa mặt bàn gỗ thông màu vàng.
“Chỉ tìm được thế này,” chị ấy nói. Chai đó có cái tên Ireland buồn cười. Nó trông hơi có vẻ trang trí.
“Em có thể ra tiệm bán rượu chui,” Jem nói nho nhỏ.
“Không, không. Không cần lo.”
Chúng tôi vẫn khui chai rượu như thường, và rót ra cái ly, rượu rót xong nằm đó, đặc và ngọt. Nghi thức này lạ lùng với chúng tôi bởi vì, tuy người nhà Hegarty đều uống rượu được, nhưng chúng tôi chưa uống với nhau bao giờ.
“Nhìn những cái chân trên đó kìa,” Ivor nói, tráng ly một vòng và giơ nó lên ánh sáng. Chúng tôi nhấm nháp, và ngẫm nghĩ một lát, rồi đột nhiên Jem cầm chìa khóa xe lên, bỏ đi trong một loạt nhận xét và chỉ dẫn đủ loại về vang trắng hay đỏ. Con cái nhà Hegarty đã có một ngày dài.
❀ ❀ ❀
Bea, vẫn đầy vẻ khinh bỉ, nhận trực ca đầu tiên trong phòng trước trong khi đám còn lại chúng tôi ở trong bếp và đi loanh quanh và tán gẫu. Ernest kiểm tra tủ ly chén - hơi hăng hái, thực vậy; thọc ngón tay vào món tương ớt xoài cũ mèm và ngửi ngửi mù tạt. Mossie đôi lúc lớn tiếng cãi nơi cái bàn gỗ thông trong khi Ita ở bên anh, ngả ra sau dựa vào quầy giữa bếp, bất động vì rượu đến độ không rửa được một cái đĩa.
Nó giống như lễ Giáng sinh dưới âm ty. Nó tựa như chúng tôi đều đã chết, và thế cũng tốt.
Từng đứa một chúng tôi cạn ly và ngồi, sẵn sàng khui rượu vang khi nó tới. Và khi nó tới thực, chúng tôi không chúc người chết mà chỉ uống và tán gẫu, như người bình thường vẫn làm.
Có câu chuyện nào đó về Alice bí ẩn, cũng như sự xuất hiện đáng ngạc nhiên của chú Val, ông trông chải chuốt thế.
Rồi Ivor nói rằng nó đang nghĩ tới việc mua đất ở Mayo.
“Cái gì?” Kitty nói, nó đang biến thành điển hình nát rượu Ireland điển hình với ly rượu trên tay. “Một phần của chỗ cũ nhà mình hả?”
“Ơ, có lẽ không chính xác ngay đó.”
“Chúa ơi.” Kitty nhìn đăm đăm tới trước như đang trông thấy chỗ đó. Nó cần một góc tấn công. Tụi tôi đứa nào cũng cần. Chúng tôi nói chuyện một lát về lãi suất và những chuyến bay tới phi trường Knock.
Rồi Ernest nói, rất nhẹ nhàng, “Ở trên đó không nhiều tiền lắm.”
“Ờ, em nghĩ đó chính là vấn đề,” Ivor nói. Và nhận ra nó đã ở thế phòng thủ.
“Tôi chẳng biết,” tôi nói. “Tôi chẳng bao giờ làm cái trò thối của bọn du khách bộ-nó-không-dễ-thương-sao với lại bộ-mình-không-dễ-thương-sao.”
Kitty nổ luôn. “Chú Val sống được cả tháng bằng mớ tiền mua cái áo khoác của mày. Cái áo khoác thối tha đó giá bao nhiêu vậy?”
“Chưa kể mày là thằng pê đê, đồ ngu ạ,” Jem nói. “Maherbeg là chỗ bọn pê đê chỉ tới để tự bắn chúng nó trong nhà kho.”
“Ô, hóa ra là chỗ đó,” Liam nói. Tôi bật cười và quay lại để chộp anh, nhưng anh không có ở đó. Anh đã chết. Anh được đặt nằm trong phòng kế bên.
Một khoảng lặng trôi qua, nhanh như một cánh cửa khép cạch lại.
“Áo khoác đó đẹp đấy,” tôi nói.
“Cám ơn,” Ivor nói, cố hiểu ra mọi chuyện. Từ trước tới nay nó chưa bao giờ bị người nào trong nhà gọi là “pê đê”. Chưa bao giờ, chưa một lần. Giống như cái chai giữa bàn, nó chỉ xảy ra ở chỗ khác.
Mossie nhướn mày lên, và dúi mặt anh vào cái ly. Vẫn sâu dưới đó, anh nói, “Hiệu gì vậy - Paul Smith?”
“Ừm…” Ivor nói, kiểm tra túi trong áo khoác. Cứ như nó không biết.
Chúng tôi cũng chưa bao giờ nói chuyện tiền bạc - ý nghĩ rằng một người trong chúng tôi, ngay cả một ông chú, có thể là nghèo hay giàu, hoặc điều đó là quan trọng. Điều gì đó đã xảy ra với gia đình này. Cái nút thắt đã lỏng ra. Rồi Ita đứng dậy trên hai chân sau và giật mạnh một cái.
“Phải,” chị nói. “Cái áo khoác đẹp thiệt.”
Lại tới rồi. Ita đã uống lâu đến độ bị chính điều ấy làm cho tỉnh táo, và chậm chạp, và dữ dội. Chị có điều tiết lộ khủng khiếp nào đó muốn nói ra và tôi tự hỏi nó sẽ là cái gì. Mày chẳng bao giờ nói tao đẹp. Hay điều gì đó tệ hơn: Mày ăn cắp sợi băng cột tóc ngon nhất của tao hồi 1973 (tôi có làm thế thật). Những tội lỗi gia đình và những vết thương gia đình, sự khó chịu bất tận về điều gì đó mà chúng tôi thấy khó gọi tên. Chẳng có gì là lớn lao, chỉ những câu thông thường, Mày hủy hoại đời tao, hay Tao thì sao? bởi vì với con nhà Hegarty một tuyên bố về bất hạnh luôn là một tuyên bố quy kết trách nhiệm.
“Cái gì?” tôi nói. “Cái gì?”
Với câu đó tôi muốn nói, Sự thật thì ích gì cho chúng ta lúc này?
“Tao sẽ qua ngồi với Liam,” sau cùng, Ita nói, vì con nhà Hegarty cũng yêu một chút vị thế đạo đức cao. Chị bật người khỏi bàn theo một góc thuận tiện để tới thẳng khung cửa. Tôi nhận ra, điều chị cần là rượu gin. Việc đường hoàng cáo lui chỉ là một cái cớ để chị có thể đi lục lọi kho dự trữ của mình.
Tôi thò tay lấy cái chai, trong cơn hoảng loạn, và tự rót cho mình một ly. Liam gõ mũi anh ra hiệu tôi giữ bí mật. Nhưng vì Liam đã chết tôi phải làm thế cho anh. Nên tôi gõ mũi mình, ba lần.
“Cái gì?” Kitty nói.
“Cái mũi,” tôi nói.
“Cái gì?”
“Ita. Vụ sửa mũi.”
“Ô thôi nào,” nó nói.
“Hếch,” tôi nói. “Hếch.”
“Em theo chị,” Ivor nói, bây giờ cảm thấy bực bội rằng nó đã mất căn nhà nông thôn của mình.
“Người ta gọi thế là gì?” tôi nói. “Retroussé hả?” Mossie nói, “Tụi. Bay. Đang. Nói. Chuyện gì?”
“Cái mũi nhà Hegarty,” Kitty nói, “Ita đã cho sửa cái mũi chúng ta.”
“Tao thực tình nghĩ,” Mossie nói.
“Gì?”
“Tao thực sự nghĩ. Đó là mũi của nó. Đến lúc này.” Và chúng tôi ồ lên cười, vì lý do nào đó.
Sau khi trận cười ngớt, còn lại Kitty và Mossie nhìn chăm chăm vào nhau từ hai bên bàn. Thế là đủ rồi, tôi nghĩ. Tôi không thể làm chuyện của Mossie cũng như mọi chuyện khác. Phải, anh ấy đánh tụi mình, Kitty. Anh ấy mười lăm. Anh ấy đánh tất cả chúng ta.
Tôi đứng dậy để vào nhà vệ sinh, và gặp Bea ngay cửa.
Ita đã nhận phiên trực xác của chị. Chị đang tựa vào trụ cửa của phòng trước khi tôi đi qua; một ly nước đậm trong tay chị. Chị đang khóc. Hay chỉ ri rỉ, có lẽ vậy. Chị không quay lại khi tôi lên cầu thang. Nhìn từ sau, chị trông đẹp. Nhìn phía sau chị trông giống Lauren Bacall.
Tôi vào phòng tắm đi tiểu rồi rửa tay và nhìn vào chính tấm gương tủ từng phản chiếu khuôn mặt tôi trên dưới ba mươi năm qua. Lớp tráng thủy ở các mép gương đã tróc. Ai trách nó được? Tôi nghĩ. Và quay người đi ra và lại đối mặt mọi người dưới nhà.
Khi tôi ra khỏi phòng tắm, cửa phòng mẹ tôi mở, chỉ hé chút xíu.
“Bea hả?” tiếng bà len qua khoảng hở. “Bea hả?”
“Không, mẹ, con đây.”
Tôi đi tới. Khi mở hẳn cửa ra, tôi thấy bà đã ngồi dựa trên giường, một cách kỳ quặc, giống một đoạn video được cho chạy nhanh tới trước và rồi dừng lại.
“Mẹ cần gì, mẹ, mẹ ổn không?”
“Mẹ cứ tưởng con là Bea,” bà nói.
“Không, là con đây, mẹ. Mẹ muốn con gọi chị ấy lên không? Mẹ muốn vậy hả?”
Nhưng bà không nhớ rõ được.
“Nào. Nằm xuống đi, mẹ. Nằm xuống,” và bà tuân theo như đứa bé dễ thương là chính bà ngày xưa. Bà ngủ nằm nghiêng, tôi nhận thấy. Bà vẫn để lại rất nhiều khoảng trống.
“Chúng nó đi hết rồi,” bà nói, sau khi đã nằm yên trên gối.
“Không chúng nó có đi đâu, mẹ.”
“Đi hết rồi.”
“Con còn đây mà, mẹ. Con ngồi với mẹ nhé? Con ngồi một lát nghe?”
Không có cái ghế nào trong phòng này. Tôi ngồi ghé vào cuối giường một lúc, và tôi xoa cổ chân và bàn chân bà qua lớp khăn phủ.
Hức hức, bà hít vào như một phụ nữ đang khóc. Hờ, bà thở ra.
Hức hức. Hờ.
Hức hức hức. Hờ.
Và thế là, một cách chập chờn, bà thiếp ngủ, trong khi tôi ngồi trong mùi hương của đời bà: kem Nivea và Je Reviens và mùi tuổi già; mùi của cha tôi nữa, vẫn từng chút một ở đó, trong lớp len khô ran của cái chăn điện, có lẽ, và lớp hồ bột hơi thiu giữ lớp giấy dính vào tường.
Tôi đang khóc, tôi nhận ra thế. Mẹ tôi không ngủ mà đang nhìn tôi. Đôi mắt bà, khi chúng nhìn ra đăm đăm phía trên mép lớp chăn, thì rộng mở và trẻ trung.
“Xin lỗi, mẹ.” Tôi đứng dậy đi ra ngoài.
“Có gì vậy?”
“Không có gì,” tôi nói, dưới ánh nhìn thông minh sắc sảo của bà, vẫn chưa biết hẳn tôi là ai.
Ở cửa, tôi không nhìn bà khi nói, “Mẹ có nhớ một người đàn ông ở nhà bà ngoại không?”
“Ông nào?” Bà đang chờ một câu hỏi. Và bà không thích câu này.
“Chẳng ông nào cụ thể cả. Chỉ là một ông ở nhà bà ngoại, thường cho tụi con kẹo vào các thứ Sáu. Ông ấy được gọi là gì nhỉ?”
“Chủ nhà hả?”
“Phải ông ấy không?”
“Mình vẫn gọi ông ấy là chủ nhà,” bà nói. Và bà nhìn xoáy vào tôi.
“Sao vậy?”
“Vì ông ta là thế.”
Và đột nhiên sốt ruột vì cái gì đó, bà giở những lớp chăn và đưa hai chân khỏi cạnh giường, tấm thân không rõ nét trong bộ đồ ngủ của bà trượt bên này rồi bên kia khi bà trườn khỏi cạnh nệm và bắt đầu đi loanh quanh. Bà tới cửa tủ quần áo và mở ra, và đóng lại. Bà trở lại giường, rồi nheo mắt nhìn nóc tủ, như đề phòng có thể có gì trên đó.
“Mẹ không biết,” bà nói. “Con đang nói gì với mẹ đấy?”
“Đâu có gì, mẹ.”
“Con đang nói gì với mẹ đấy?”
Tôi nhìn bà.
Con định nói rằng, vào năm mà mẹ gửi tụi con đi, đứa con đã chết của mẹ đã bị lạm dụng tình dục, khi mẹ không có mặt ở đó để vỗ về hay bảo vệ anh ấy, và cái vụ lạm dụng ấy là đủ để đẩy anh đi theo con đường đã kết thúc trong cái hòm dưới nhà. Đó là điều con định nói, nếu mẹ muốn biết.
“Con chỉ thích mớ kẹo thôi, mẹ. Trở vào giường đi. Con chỉ nhớ có mấy viên kẹo.”
Bởi vì tình thương của một người mẹ là trò đùa lớn nhất của Chúa. Và ngoài ra - ai xác định được đâu là nguyên nhân đầu tiên và đâu là nguyên nhân cuối cùng?
Tiếng rì rầm của những giọng nói trong bếp bên dưới tăng lên, và có tiếng cười, sau đó là tiếng sập cửa sau. Lại Kitty nữa, bỏ ra ngoài.
“Mẹ không biết.”
Mẹ ngồi lại xuống giường. Giờ bà đã mệt. Giờ bà chẳng thích ai cả.
“Mẹ chẳng biết nó ở đâu,” bà nói. “Đồ trong nhà: nó ở đâu đó tuốt trên kia. Nó ở cái kệ trên đó. Mẹ chẳng biết.”
Nhưng tôi đã ôm vai bà, và đang xoay bà lại, đặt nằm xuống giường.
“Con sẽ gọi Bea cho mẹ.”
“Ờ,” bà nói.
“Con sẽ gọi chị ấy cho mẹ ngay.”
Nhưng tôi không gọi.
Tôi đóng cửa và nhìn quanh chiếu nghỉ. Tôi đi lại phòng ngủ của mấy đứa con gái đã lớn, và tôi nhìn trên nóc tủ quần áo và mở các tủ chén bát, rồi tôi đi ra và làm tương tự trong phòng ngủ cũ của tôi. Tôi đứng trên giường của Alice trong ánh sáng vàng nhếch nhác và lôi xuống một hộp bánh quy có ghi chữ “Giấy tờ” bằng nét chữ yếu ớt, bay bướm của mẹ tôi. Tôi đang tìm thứ mà bà không tìm ra, nhưng những thứ trong hộp chỉ là các hồ sơ thuộc loại tùy tiện nhất trên đòi, những giấy xác nhận làm phép thêm sức, chứng chỉ lớp Dân vũ Ireland của Kitty, lớp Diễn thuyết trước công chúng của Emest tại Feis Maithiu; văn bằng của tôi, thật lạ ghê - điểm Giỏi đầy đặn ngon lành của tôi ở Đại học quốc gia Ireland; Giấy chứng nhận ra trường của Liam, bây giờ nó có ích cho anh biết mấy. Có vẻ như mẹ cất đi mọi thứ giấy tờ thuộc loại dày được cuộn lại và vô dụng. Tôi phóng tâm trí đi khắp ngôi nhà lòng tự hỏi cái thứ quan trọng thì nằm ở đâu, các khai sinh và khai tử, các ảnh chụp và hợp đồng và chứng thư. Đột nhiên, tôi hiểu ra bà cất chúng ở đâu, và đặt hộp xuống giường.
Nhưng tôi đã quấy rầy những bóng ma. Họ ở bên ngoài cửa phòng, lúc này, như những bóng ma của tuổi thơ tôi đã ở đó; họ ở sau cũng cánh cửa đó. Câu chuyện của họ ở đó, ngoài kia trên chiếu nghỉ của căn nhà phố Griffith, đợi tôi một lần nữa.
Họ là ai?
Trước hết là Ada, chết một cách thực tế. Một thứ già nua mỏng manh, bà là loại ma luôn quay lảng đi. Ada yên ổn làm người chết. Quá khứ chảy thành một vũng nước quanh chân bà.
Charlie cũng ở đó, lóng ngóng và có màu nâu. Charlie, kẻ không có tính xấu trong người thế nhưng vẫn làm mọi thứ tồi tệ - những món nợ khó trả, những lời hứa bỏ mặc, và tình dục tồi tệ với những cô gái bán hàng và các bà nội trợ và những nữ diễn viên năm thì mười họa. Mong muốn vận may của ông xoay vần, tuy may mắn của ông luôn xoay vần, và vận may của ông thì lúc nào cũng vậy. Charlie không thể thoải mái với kiếp người chết cho đến khi ông lấy lại được hết cho Ada, tình yêu đích thực duy nhất của ông.
Đấy là những ác mộng của tôi. Đó là thứ tôi phải đi xuyên qua để xuống dưới nhà.
Tôi vặn tay nắm cửa và Nugent là một vệt loang kinh hoàng trên chiếu nghỉ. Ông ta di chuyển như có mùi khắp căn nhà. Nugent chơi với em gái Lizzie của ông ta, giờ họ đều đã chết. Họ hôn nhau và được an ủi. Họ không thở; sự quấn quýt và trườn bò của hai cái lưỡi của họ thì bất tận và thiếu hơi và lạnh.
Tôi băng qua nửa thước thảm đưa tôi tới mép bậc thang. Tôi rơi xuống chúng, mỗi lần một bậc. Tôi chín tuổi, tôi sáu tuổi, tôi bốn tuổi trở lại. Tôi không thể đặt tay lên lan can, phòng khi tôi chạm thứ gì mà tôi không hiểu. Nút bật đèn ở chân thang có vẻ lui ra xa, theo bước tôi đi nhanh hơn. Ai đã tắt nó? Tại sao đèn trong tiền sảnh tắt, khi có một cái xác trong nhà?
Cái cuối cùng luôn là tệ nhất. Chú Brendan của tôi, với quần cụt và tất cao đến gối. Ông đứng ở tiền sảnh bên ngoài phòng của hai đứa em sinh đôi, căn phòng nơi Stevie chết lúc sơ sinh, và cái đầu trung niên của ông đầy ứ đến nổ tung những điều ông muốn nói với Ada, mà bà sẽ không nghe ông nói. Xương của Brendan bị trộn với xương người khác; nên có một cảnh rối loạn của các linh hồn đang rì rầm và rên rỉ bên trong áo quần của chú, họ sẽ hiện ra trong tiếng la ầm vang nếu chú mở nút quần; nếu chú há miệng họ sẽ tràn ra qua răng chú. Brendan chẳng được yên với họ, linh hồn của những người bị quên lãng phải luôn bò lê và phình ra và rên rỉ trong đó; chú thò tay và gãi trong cổ áo và mấy mớ linh hồn thoát ra. Chỗ duy nhất vắng bóng họ là đôi mắt xanh không ưa được của chú, nên Brendan chỉ trơ mắt nhìn khi tôi thò tay tới nút điện, và áo của chú phập phồng, và đôi tai chú rỉ ra bọn điên và đám người chết phiền hà.
Đèn bật sáng. Như nó vẫn thường như thế. Và thân xác tôi, trong ánh sáng, ơn trời là một thân xác hai chín tuổi. Và khi tôi bước vào phòng khách tất cả đều im lặng. Không có hồn ma nào trong đó với xác Liam, kể cả hồn anh.
Những ngọn nến đã cháy gần hết.
Trong ngách phòng, gần cửa sổ, là một món nội thất - tôi nghĩ chúng tôi thường gọi nó là “tủ ly chén” - một món bằng gỗ sồi dày, với những kệ bày ly và bình lọ, và những ngăn kéo thấp bên dưới. Tôi kiểm tra những ngăn kéo này và không tìm thấy gì. Hoặc nói cách khác tôi tìm thấy đủ thứ: một cối xay sinh tố cũ trong một túi nhựa trong suốt đã ngả xám vì thời gian, đĩa đơn 78 vòng của mẹ tôi từ một thời điểm khó tin trước khi bà lấy chồng, “Jussi Björling”, và “Furtwänglerconducts”; bàn chơi ráp chữ Scrabble; một trò chơi có tên Camel Run; một túi lưới đựng bốn món trái cây giả sứt mẻ; một tấm băng bảo vệ cho đầu gối của ai đó đã hết đau từ lâu. Rồi tôi nghĩ chuyện nhìn lên. Ở đó, đằng sau tấm gỗ cưa lọng trang trí nằm trên đỉnh cái tủ này, là mấy cái hộp. Tôi đẩy miếng vải lót sang một bên và leo lên, và thò tay tới một cái hộp giấy cứng màu xanh. Tôi khều nó xuống, và chụp được nó, và lóng ngóng quanh cái nắp, trên đó cha tôi đã viết chữ “Broadstone”. Rồi tôi leo xuống và đứng ở nền nhà, và mở nó ra.
Bên trong, có một túi giấy nâu đựng vài bức ảnh, tất cả đều in bằng thuốc tráng ảnh màu nâu. Mấy tờ hóa đơn - thứ mà bạn nhận được ở một tiệm bán thịt kiểu xưa. Một xấp nhỏ những lá thư được viết trên giấy màu xanh có in hoa văn mờ loại phụ nữ thường dùng, và được cột bằng một sợi thun. Một mớ những cuốn sổ bìa cứng màu xanh, mỗi cuốn được ràng theo chiều thẳng đứng bằng một sợi của thứ mà Ada gọi là “thun quần” bất kể bà dùng nó vào việc gì.
Chúng là những cuốn sổ thuê nhà; bắt đầu từ 1937, khi mẹ tôi được tám tuổi. Cuốn thứ nhất ghi chép việc chi trả tiền thuê trong mười lăm năm, cứ mỗi trang mười hai tuần. Cũng nét chữ ấy, cây bút máy ấy, hết dòng này tới dòng khác vào mỗi thứ Sáu, mỗi năm lại có một mức tăng nhỏ. Cây bút máy ấy tiếp tục qua cuốn thứ hai và chỉ đổi sang bút bi ở cuốn thứ ba - khi tiền thuê nhà được trả theo tháng, và nét chữ bắt đầu chuyển sang màu bút chì hoặc bút bi đỏ hay bất cứ thứ gì tiện trong tầm tay.
Những thứ này làm gì trong căn nhà của chúng tôi ở phố Griffith, mười sáu năm hay lâu hơn nữa sau khi người phụ nữ này chết? Tại sao người ta phải giữ những thứ này, ngoại trừ do sợ hãi - sợ cánh tay dài ngoẵng của pháp luật, hay của những ủy viên thuế vụ; kiểm tra tình trạng thuế ở một ngôi nhà mà bạn không hề sở hữu, và mẹ bạn cũng không sở hữu trước khi bạn mua được nó? Khi trả nó lại vào hộp, tôi có cảm giác buồn nôn khi hiểu ra ý nghĩa của những cuốn sổ này đối với người sở hữu, những quyền hợp pháp mà chúng mang lại*.
•
Ở Ireland, chủ nhà phải cung cấp cho người thuê nhà một cuốn sổ ghi chép tiền thuê nhà, gọi là rent book, cùng với hóa đơn mỗi khi nhận tiền thuê nhà. Sổ này có thể dùng làm chứng từ khai thuế cho cả chủ lẫn người thuê.
Sau 1975 chẳng có gì cả. Nhiều trang chẳng ghi gì. Tôi tự hỏi phải chăng đây là năm Nugent qua đời? Tôi giơ cuốn sổ và quay lại giơ nó ra cho Liam, và tôi thấy Ada nhìn chúng tôi từ khung cửa. Bà ở đó. Tôi thấy bà không giống như tôi “đã thấy” những bóng ma trên bậc thang. Tôi thấy bà như tôi có thể thấy một phụ nữ thực sự đứng trong ánh sáng của tiền sảnh.