Chương 37
Những vụ tự tử luôn lôi kéo một đám đông lớn.
Người ta chen vào: họ lấn nghẹt các cửa và đi lại rụt rè dọc các băng ghế phía sau, tụ tập ngoài rìa nhà thờ: họ xuất hiện theo nguyên tắc, vì một vụ tự tử đã bỏ lại mọi người sau lưng.
Tôi ước chi họ cứ ở nhà.
Tôi đứng trong hàng hiên nhà thờ chờ xe chở những người tham dự lễ tang từ phố Griffith tới. Tom đang đuổi theo Emily dọc một băng ghế. Rebecca đứng bên tôi và sẽ không buông tay tôi ra. Tôi nhẹ lòng khi có con cái để bận tâm giữa những người này, kẻ lạ và bạn bè, họ dò xét khuôn mặt tôi và không nói lời chào hỏi, hoặc chưa. Tôi lu bu bên đám trẻ, và rầy la Emily và bảo chúng lại chỗ cha chúng: anh sẽ cần đi sớm để đưa bọn nhỏ đi qua chỗ cái hòm ở đầu lối đi chính trong nhà thờ.
Một phụ nữ len qua đám đông đi về phía tôi. Tôi biết mặt cô ta ở đâu đó - giá như tôi nhớ được là ở đâu, thì tên cô có thể hiện ra với tôi, cùng với điều cô ta có thể muốn. Cô ta đã khóc nãy giờ, đó là điều phiền hà. Tôi nghĩ, bất kỳ ai cũng có thể phơi bày tình cảm với bạn, một khi bạn chết.
Cô ta cao, nhợt nhạt, tóc đen và thế này hẳn là đủ, tôi phải nhận ra cô qua điều đó, và qua cái vẻ bối rối của một phụ nữ vừa bị tổn thương vừa dịu dàng ở cô ta. Cô ta nhìn quanh cho đến khi thấy tôi - tôi biết chính tôi là người mà cô đang tìm - và cô ta tiến tới, len lách qua những người khác với vẻ duyên dáng vụng về. Cô ta vai to hông nở, trong một chiếc áo khoác dài màu nấm và bộ váy len nâu nhạt.
Rồi tôi nhớ ra cô ta qua lần thăm viếng kinh khủng đó của Liam, cái lần tôi đưa thợ xây dựng tới, và phòng ngủ của đám con gái chưa lót nền, ngay giữa cảnh lộn xộn ấy, Liam đến cùng người phụ nữ này, người có vẻ như không có ý kiến về bất cứ chuyện gì. Thậm chí không có ý kiến về món mà cô ta muốn ăn.
Tôi không biết Liam sống chung với hoặc ngủ trên cái giường đơn của cô ta đã bao lâu, hoặc làm bất cứ gì anh đã làm với những cô gái tai hại này. Và tôi không thể, dù cố gắng đến mấy, nhớ được tên cô ta. Nhưng tôi có nhớ mình thương cô ta chút ít, vào thời điểm họ lên đường đi Mayo, với đôi bàn tay thon dài bồn chồn của cô ta, và làn da nổi gân xanh, và mái tóc búi tó đẫm nước. Tôi nhớ mình đã hy vọng rằng cô ta sẽ đem lại chút bình an ngơi cho anh.
Bây giờ cô ta đã già hơn, tuy cái cảm giác tổn thương chập chờn ấy vẫn còn đó, khi những mảng ánh sáng qua kính nhuộm màu lướt ngược lên trên ngực và đậu lại ở khóe mắt cô ta. Nhưng điều đó tan mất vào lúc cô ta đến chỗ tôi. Cô ta hướng khuôn mặt về phía tôi, và đầy ắp câu chuyện mà cô ta muốn nói. Nó đang tìm đường thoát ra khỏi cô ta, thứ này đó. Dù sao đi nữa, điều đó chẳng phải lỗi của cô ta.
Và tôi vẫn không nhớ được tên cô ta.
“Phải Kitty báo cho cô không?” tôi nói. “Đường sá xa xôi quá.”
Và đột nhiên tôi thấy mình rất Ireland khi nắm lấy tay cô ta bằng cả hai tay, để cám ơn cô ta vì đã bỏ công đi chuyến này, để chào đón và cho phép cô ta thương khóc.
“Cô sẽ trở lại khách sạn hả? Cô biết nó ở đâu không? Cô có muốn đi nhờ xe không?”
“Tôi vừa đến,” cô ta nói. “Tôi vừa tới.”
“Cô nghe tin hả?” tôi nói, ám chỉ vụ tự tử của anh, và cô ta gật đầu, cứ như chuyện này là hơi lạc đề.
“Đây là Rowan,” cô nói, đưa tay lôi một đứa bé đứng sau đôi chân thanh tú của cô ra, và tôi nhìn xuống thấy, lần đầu tiên, đứa con trai của ông anh tôi.
Nó có cái đầu lớn kỳ lạ và thân thể nhỏ bé nghiêng tới trước và tôi nhận ra, sau một giây, rằng điều đó là do nó mới ba tuổi. Bởi vì nó mới ba tuổi - sắp lên bốn - nên cái đầu nó cân bằng thật dễ thương trên cần cổ khi gương mặt nó ngửa lên quan sát tôi, với đôi mắt xanh của anh tôi, tuy nhiên khi mẹ nó bảo nó, “Chào đi,” nó lại xoay người lẩn ra sau tấm áo khoác của cô. Nó ló nhìn ra rồi thụt vào, và tôi nhận ra mình cần phải chơi trốn tìm với đứa cháu này. Tôi cần phải rùn người xuống và chạy vòng mé bên kia đôi chân gầy gò của mẹ nó. Và tôi làm vậy. Tôi nói, “Chào Rowan,” và “Cháu vừa đi máy bay hả?” Rồi tôi nói, “Chào Rowan,” lần nữa, “Chào bé cưng,” tự hỏi làm sao tôi lừa hay dụ được đứa bé này vào vòng tay tôi và, sau một lát, hôn nó, hoặc hít nó. Làm sao tôi rình hoặc lén được phép cạ má tôi trên da lưng nó, và nghịch những đốt xương sống của nó, và thổi những nụ hôn đậm đà vào chỗ mềm mại của đôi tay nó? Có lẽ sau này. Có lẽ tôi sẽ có thể làm chuyện đó sau này.
“Ô, nó giống kinh khủng,” tôi nói với mẹ nó, tên cô ta, tôi nhận ra, là Sarah. Tôi biết từ đầu rằng tên cô là thế.
“Dạ,” cô nói.
Và cái nhìn qua lại giữa hai chúng tôi là cái nhìn quan tâm thật sự.
“Cô vào ngồi với chúng tôi chứ?” tôi nói, ra hiệu về phía đầu nhà thờ, tuy tôi biết đây có lẽ không phải là lúc tốt nhất để báo tin này.
“Không,” cô nói. “Ô, không. Tôi rất tiếc, tôi chỉ ghé qua thôi.”
“Vậy cũng được,” tôi nói. “Cô sẽ trở lại sau chứ?”
“Ô, tôi nghĩ thế,” cô nói. “Tôi nghĩ nên trở lại.”
“Phải, nên lắm. Nên lắm.”
Xe chở những người tham dự tang lễ đã tới bên ngoài, nhưng tôi thấy mình không rời thằng bé được. Tôi ngồi xổm xuống và tôi mỉm cười. Nó lại trốn đi. Tôi thò tay ra và nó lui ra xa hơn. Nó biết nhu cầu của tôi muốn gần nó là quá lớn. Và rồi, con người quỷ quái là tôi đây, tôi nói, “Sau này, cháu biết đó, nếu cháu trở lại với tất cả chúng tôi, sẽ có cả thùng cả thùng kem đấy.”
Nó thì thích cái vụ đó thôi.
Họ đến rồi: mẹ tôi, nhỏ bé, tròn và phập phồng trong đôi tay thanh tú của Bea. Mossie kèm bên kia, cũng cao, và đẹp trai theo kiểu của dân có nghề; bà vợ dịu dàng của anh; ba đứa con quá hoàn hảo của anh; Ita đi đều bước chậm chạp; hai đứa song sinh, Ivor và Jem, cứ va vào nhau rồi tách ra, suốt đoạn đường lên tới lối đi giữa nhà thờ. Kitty, em kế tôi, dừng lại nắm lấy tay tôi, theo một kiểu lặng lẽ giả vờ. Khi tôi quay người đi, Sarah gật đầu hàm ý rằng cô sẽ không biến mất, rằng cô biết mình là ai, và tại sao cô đến đây.
Tôi đi về phía đầu nhà thờ và bị chìm trong thứ cảm xúc, dù là yêu thương hay buồn bã, đang dâng đầy ngực tôi. Khuôn mặt tôi cứng lại thành mặt nạ của một phụ nữ than khóc, một nửa bị lôi tới một màn khóc lóc mà nửa kia không cho phép. Chẳng có nước mắt gì. Đầu tôi xoay tránh khỏi phía nhà thờ nào quan tâm hơn đến nỗi buồn của tôi, chỉ để phơi nó ra với phía còn lại. Tới rồi đây. Cuộc diễu hành chậm chạp của những Hegarty còn lại. Tôi không biết chúng tôi đang bày ra vết thương nào trước mắt mọi người, ngoài vết thương của gia đình. Bởi vì, ngay trong lúc này, tôi thấy rằng thuộc về một gia đình là phương cách đau đớn nhất trên đời này để sống.
Tom quay người, và khi thấy mặt tôi, anh dừng lại.
Anh hướng tôi vào chỗ ngồi ngay trước mặt anh, và mấy đứa con gái theo tôi từ mé bên kia.
“Ổn chứ?” anh hỏi, lướt tay anh trên tay tôi, trong khi Emily quay qua để bám lấy tôi - hoặc là, nếu cần nói sự thật, là để mân mê vú tôi trong khi giả vờ ngắm nghía (hay an ủi, có lẽ vậy) những cái cúc bọc vải trên áo khoác tang lễ tươm tất của tôi.
“Để mẹ con yên nào,” Tom nói.
Quả vậy. Tôi đã bị đụng chạm quá nhiều trong vài ngày qua. Tôi bắt tréo chân gác lên ký ức về cuộc làm tình của chúng tôi vào đêm canh xác. Hoặc cuộc làm tình của anh. Và đợi cho thánh lễ bắt đầu. Ai cũng muốn một chút ở tôi. Và điều đó chẳng liên quan gì tới điều tôi có thể muốn, hay điều cơ thể tôi muốn, cho dù đó là điều gì - Chúa biết rằng đã lâu lắm rồi tôi không còn biết điều đó. Tôi đó, ngồi trên một băng ghế nhà thờ trong khối xác thịt của mình: bị cào cấu, sử dụng, được yêu, và rất cô đơn.
Thực ra, tôi có biết điều tôi muốn. Tôi muốn kẻ nào đã chạm vào eo lưng tôi trong gian bếp của mẹ nói ra họ là ai. Và nói, một lần nữa, rằng mọi chuyện sẽ ổn. Bởi vì tôi cảm thấy cái đụng chạm yêu thương của ai đó, và tôi đã hoàn toàn được nó trấn an, trước khi tôi quay lại để thấy rằng chẳng có ai ở đó cả.
Tôi cũng muốn Rowan nữa. Tôi thèm khát nó, không phải bằng môi hay tay, mà bằng cả khuôn mặt. Làn da của tôi muốn nó. Tôi muốn thơm nó, và cảm thấy mớ tóc sáng của nó châm râm ran vào cằm tôi. Tôi muốn nhấp nháy lông mi cạ vào má nó.
Những tưởng tượng miên man này chạy qua trí óc tôi suốt những gì diễn ra sau đó: thánh lễ và lão linh mục ngốc nghếch và mấy lời Ernest phát biểu bên ban thờ.
Liam chẳng bao giờ quan tâm đến những chuyện vật chất, Emest nói. Anh có máu khôi hài thượng hạng.
“Em trai tôi mê cuồng vì công lý,” anh nói, không đề cập tiếp rằng vụ này sẽ biến thành trò đá vào xe buýt lúc say. Nhưng việc này cũng két thúc tốt. Những lời lẽ được nói ra đúng mực, trong khi đằng sau tôi, điều bí mật lớn lao, và sắp-phải-tiết-lộ, của tôi gào lên, “Xin chào! Xin chào!” bằng giọng Nam London ở phía cuối nhà thờ.
Chúng tôi thực hiện toàn bộ sự vụ đó. Chúng tôi lại đi theo cái hòm dọc lối đi giữa nhà thờ và ngay khi ra tới ngoài trời, tôi nói điều đó với Tom.
“Anh nhớ cô ấy không? Cái cô đi với anh ấy lần cuối cùng, hoặc là lần kế chót.”
“Cô nào?”
“Có nhớ cô gái không chịu ăn, mang cái mặt khó chịu, khi mình cho thợ sửa nhà đó?”
“Anh không biết,” anh nói.
“Anh ấy đổi xử kinh khủng với cô ta.”
“Ô, vậy sao. Cô ấy.”
“Cô ta có thai,” tôi nói. “Lúc đó cô ta có thai.”
“Với anh ấy?”
“Ô, không nghi ngờ gì về thằng bé,” tôi nói. “Đó là Liam. Y hệt.”
Nhà Hegarty bị kẹt trong hàng hiên, bắt tay năm trăm người. Tôi không biết đến nửa sổ đó, và tôi không quan tâm. Tôi chờ Sarah xuất hiện để tôi kéo cô qua một bên và nghĩ xem làm chuyện này như thế nào.
“Tôi rất tiếc cho chuyện nhà chị.”
“Cám ơn.”
“Tôi rất tiếc.”
“Đây là mất mát lớn.”
Mọi người trong bọn họ đều bày tỏ áy náy về chuyện ai đó bạn yêu thương đã chết, khi thế giới thì đầy những người bạn không yêu.
“Tôi biết anh ấy hồi còn đi học,” một ông nói với tôi, biến hình, ngay khi lời lẽ phát ra, từ một người lạ trung niên thành Willow trong vụ cái chai vodka dẹp và thành ông anh đẹp đẽ. Ông ta quả đúng là anh ấy, và điều này làm tôi rối trí. Tôi không thể lấy lại hình ảnh một người trung niên, vì bây giờ tôi biết ông ấy là ai.
“Ôi, Willow,” tôi kêu lên, như một con nữ sinh ngốc. Tình yêu là một chuyện, nhưng có vô số người trên đời này để ưa thích, mà chúng ta chưa bao giờ gặp.
Quả là một việc kích động, cái chuyện chôn người chết này.
❀ ❀ ❀
Tôi đợi đến khi chúng tôi tới khách sạn, và ngay cả lúc đó tôi cũng ngại báo tin. Tôi không thể chuyển nó cho Bea, người sở hữu mọi người nhà Hegarty. Tôi không thể phơi nó ra trước thói chua chát của Ivor, hay óc thông minh của Ita, hay những kỹ năng quản trị kỳ diệu của Mossie. Tôi cần có một đứa bé để làm việc này, hoặc một đứa bé lớn xác.
“Lại đây, Jem” tôi nói với thằng em tôi; đứa em út và được cưng nhất. Và tôi nhìn nó đi vòng quanh những người khác; mẹ là sau cùng. Bea cố cho bà ngồi xuống, nhưng bà không chịu ngồi. Mẹ đứng dậy và cởi nút áo cánh của bà, và, đôi mắt kích động, cởi tuột chiếc áo khoác đang phất quanh bà vì kẹt trong tay áo thứ nhì. Bà thấy Sarah với đứa bé, khi Bea kéo phần áo khoác cuối cùng ra khỏi tay bà, và bà vội vàng bước tới, thậm chí là chạy, để đặt hai tay bà lên vai cậu bé, rồi đưa lên ở cả hai bên để khẽ chạm vào khuôn mặt dễ thương của nó. Bà nhìn Sarah, với một thỏa thuận khủng khiếp trong mắt bà, và Sarah bước tới, rất lễ phép, và bắt tay bà. Sau đó, cứ như chuyện này chưa hề xảy ra, mẹ quay đi.
Thật khó để mô tả ảnh hưởng của cậu bé đối với những người nhà Hegarty tụ tập đó.
“Rowan hả?” họ nói. “Rowan.”
Cứ như chúng tôi chưa từng thấy một đứa bé trước đó. Nó có đôi mắt của nhà Hegarty, chúng tôi nói - với vẻ sung sướng, tựa như chúng không phải một lời nguyền - và chúng tôi muốn tìm xem con người nào nhìn ra qua hai con mắt ấy, lần này. Thật quá kỳ lạ. Mọi người đều muốn chạm vào nó. Họ không đừng được - họ đưa tay ra và nó tránh đi; thậm chí rúm lại. Người mà nó chọn làm chỗ nương náu, chẳng phải ai khác, là Mossie, anh đặt nó lên một bên chân dài và tưng nó, thật mạnh, Nhong nhong ngựa ông nào, có nguy cơ làm ngã nó xuống sàn. Mossie, một tấm gương đen cho Liam, yêu thằng bé và nó yêu anh. Mấy đứa con của Mossie bu lại, và lần đầu tiên tôi thấy chúng hạnh phúc làm sao - bởi thế nên chúng mới ngoan ngoãn vậy, với bà mẹ dịu dàng và ông bố cương quyết nhưng công bằng, chúng hài lòng.
Đây có vẻ giống một điều lạ lùng đáng nhận ra ở ông anh của bạn, sau bấy nhiêu năm - nó hầu như còn lạ lùng hơn chuyện về đứa con của Liam. Có lẽ là do sự cố về đứa con Liam thì quá hoang đường khó mà nghĩ tới, ngay giữa khu tiếp tân của một khách sạn, trong vùng ngoại ô của Dublin, nơi khoảng hai trăm người tôi biết ít nhiều đang ngồi vào bàn chờ xúp hoặc dưa, kế tiếp là cá hồi và thịt bò.
Chúng tôi ăn sạch cả đống. Tới tận bánh nướng nhân táo và kem. Chúng tôi không làm khách. Chúng tôi phết những tảng bơ lên các ổ bánh mì trắng loại xoàng, và chúng tôi yêu cầu thêm trà. Tôi quan tâm quá lố đến thức ăn. Tôi ngước mắt khỏi đĩa để nhìn Rowan rồi lại nhìn xuống để găm một cục khoai tây trộn bột chiên.
Có những chuyện khác nữa để ghi nhận, mỗi khi tôi đủ sức đưa ánh mắt khỏi thằng bé. Ivor nói chuyện với Willow bạn Liam trong nhiều quãng quá lâu. Một cái nhìn qua lại giữa họ với ông cha cố, rõ là thế, ông này lấy áo khoác và nhìn lại, trước khi ông ra khỏi cửa. Ernest cũng thấy cái nhìn cuối cùng đó và ghi nhận. Lại còn Ita đang ngồi thẳng góc với Ernest, cầm lấy cánh tay anh và nói chuyện với một bên mặt anh, khuôn mặt có cái nhìn rầu rĩ và bối rối mà tôi nhớ được qua lần xưng tội. Ai đó đã đưa cho Kitty cái micro, và nó đứng đó trong khi Mossie cầm dao gõ vào ly. Rồi nó đặt micro xuống bàn, và ngước mặt lên hát, với giọng rất ngọt ngào, bài hát ưa thích của Liam:
Ta hãy dừng giữa những niềm vui trong đời
Và đếm bao nhiêu là nước mắt
Trong khi ta nhấm nháp nỗi buồn với người nghèo
Có một bài ca sẽ ngân nga
Mãi mãi trong tai ta
Ôi, thời khó khăn đừng tới nữa
Làm sao khác được. Chuyện ngu ngốc này. Tôi phải ép mạnh vào mi mắt, nước mắt sao mà bất ngờ và gắt vậy.
Đây là bài hát, tiếng thở dài của kẻ mệt mỏi
Thời buổi khó khăn, thời buổi khó khăn
Đừng tới nữa
Mày đã lần lữa bao ngày
Quanh cửa căn chòi của tao,
Ôi, thời khó khăn đừng tới nữa
Một sự đồng thuận không đều tụ lại trong đoạn điệp khúc, nhưng, do phép lạ nào đó, họ để nó hát đoạn xướng một mình: cô em phiền hà của tôi, nhìn lên trần nhà với đôi mắt ngây thơ, khi nó nhận từng nốt nhạc rồi dịu dàng nhả nó ra.
Trong khi chúng ta tìm hoan lạc và nhan sắc
Và tiếng nhạc nhẹ và vui,
Có những hình dạng hom hem ngất ở cửa;
Tuy tiếng nói họ lặng câm, những ánh mắt van xin của họ muốn nói
Ôi, thời khó khăn đừng tới nữa
Không có một con mắt nào còn khô trong ngôi nhà. Trên đầu gối Mossie, Rowan dần bực bội, khi nó nhìn mẹ nó chùi nước mắt.
“Im đi,” đột nhiên nó nói. Rồi lớn tiếng hơn, “Im đđiii!” bằng giọng Anh ngọt ngào của nó, và mọi người bật cười. Tôi chưa bao giờ dự một đám tang nào hạnh phúc hơn.
Tôi đẩy lui ghế và ra ngoài tìm một điếu thuốc.
Nhiều năm qua tôi đã không còn hút thuốc. Cả bọn chúng tôi đều đã bỏ thuốc, cách này hay cách khác, sau khi cha chết, nên tôi phải đường đột tới bên một người hàng xóm với yêu cầu suồng sã kỳ khôi này.
“Tôi có thể lấy của ông một điếu được không? Ông cảm phiền chứ?”
“Cứ làm đi. Cứ làm đi.”
Tôi đi và ngồi ở hành lang, và tôi hút thuốc. Điếu thuốc có vị như điếu đầu tiên mà tôi từng hút, khi ngồi trên tấm nệm của Liam trong lối ra vườn, năm 1974.