Chương 38
Vào ngày nghe tin Lambert Nugent chết, bà ngoại Ada kêu một tách cà phê ở quán Bewley - không có gì ly kỳ, chỉ là cà phê sữa với một lát bánh kem sữa, do hầu bàn nữ phục vụ, và khi các thứ được mang tới, bà gỡ găng tay ra, cũng với sự chính xác co giật vốn khiến Nugent chú ý, rất nhiều năm trước. Thế là, ông ấy đã chết. Bà nhấp cà phê và cắt lát bánh thành những mẩu nhỏ, rồi bà ăn, từng mẩu một, cho tới khi xong.
Ada ưu tư về tiền thuê nhà - tuy bà không cần phải lo lắng về tiền thuê nhà; bà đã nghe tư vấn về vụ tiền thuê, nhiều năm trước. Ai đó khác sẽ tới và thu khoản đó - người nào đó bà không quan tâm, cách này hay cách khác, và nó sẽ vẫn là khoản tiền đó và vẫn ngôi nhà nhỏ đó, và vẫn cuộc đời bà sống trong đó. Cho dù vậy bà vẫn cảm thấy nó đã tách rời, rằng gạch xây và phiến thạch và những tấm hoa cương làm rầm đỡ đã ra khơi trên một vùng biển xám, yên tĩnh.
Xong hết rồi. Cho dù câu chuyện giữa họ là gì đi nữa.
Nolly May.
Hay thậm chí, như đôi khi họ gọi, Nolly May Quả Quýt - từ chuyện “Đừng chạm vào ta” của Kinh Thánh*. Và tại sao? Tại sao không nên chạm vào Ngài?
•
Nguyên văn: “Nolly May Tangerine” với tangerine nghĩa là quả quýt, kiểu trẻ con nhại theo “Noli me tangere” (Đừng chạm vào ta) vốn là bản Latinh của câu Giêsu nói với Mary Magdalene sau khi sống lại, theo Kinh Thánh. Ở đầu truyện, ta đã biết Nolly May là tên gọi khác của Nugent.
“Ông ta không phải một gã buồn cười sao?” như bà thường nói về Lamb Nugent, sau lời bình phẩm này nọ, sự hàm ý nào đó: thói hoang phí của bà ở cửa hàng thịt, hoặc những món cần thiết cho lễ Giáng sinh. “Ông ấy thật rộng lượng,” bà thường nói, qua đó hàm ý rằng, vào ngày ông mất, bà có thể kêu một lát bánh kem sữa ở tiệm Bewley, và thực sự sung sướng mà ăn nó.
Ada bảy mươi tuổi, điều này với một lớp phụ nữ nào đó, thì chưa thực sự già. Bà luôn năng động và có thể còn tới hai mươi năm nữa trước mặt (tuy bà không hề có hai mươi năm trước mặt mình), Ada không đếm. Ở tuổi bảy mươi, bà nằm trên giường, giống như lũ còn lại chúng ta, nghĩ về độ ấm áp và mịn màng ở bàn tay của bác sĩ gần đây nhất. Hai bàn tay bà, khi bà giải thoát chúng ra khỏi đôi găng tay da đen, thì gầy guộc và bồn chồn: một đám lộn xộn những dây những núm những xương, như đám thừng chão của con thuyền. Ai cần đến bác sĩ, khi cơ thể ta đang cố thoát ra khỏi ta, để phơi bày những bộ phận vận hành của nó? Ada yêu đôi bàn tay của bà, thậm chí hơi tự hào nữa - chúng nó đã khéo léo làm vậy, qua bao năm. Về những phần còn lại của cơ thể, bà chẳng buồn kiểm tra, vốn từ lâu đã bất hòa với tấm gương, chúng có vẻ không đem đến cho bà chút thông tin hữu ích nào - tuyệt đối không.
Nhưng đôi tay bà, khi chúng chậm rãi nhúng cái muỗng, để cà phê thấm lên qua lớp đường phủ ngoài, đôi tay bà đã phục vụ tốt. Chúng đã khâu vá và tháo chỉ. Chúng đã làm công việc côn trùng của chúng, và thay đổi, như bọn kiến có thể thay đổi, bề mặt của trái đất.
Và khi bà mút đầu muỗng dẻo dính Charlie ở đó ngay trước mặt bà, cúi xuống bên một túi giấy và nói, “Ô, cho tôi táo để tôi được bồi dưỡng,” ở trường đua ngựa tại Fairyhouse, cách nay cả một đời người.
Ăn nói thật sặc mùi Tin Lành, bà chợt nghĩ - kiểu trích dẫn Cựu Ước như vậy. Và bà tự hỏi lần thứ một ngàn, liệu chồng bà có thực là người như ông ta tự xưng không, dù mảy may.
Nếu Ada từng đi tới bất kỳ loại kết luận nào trong đời này, thì nó là một kết luận nho nhỏ. Con người, bà thường nghĩ, không thay đổi, họ chỉ lộ ra thôi. Châm ngôn này bà đã áp dụng, với độ thỏa mãn xoàng xĩnh nhất, cho các chính khách trở cờ, những bạn hôn phối không chung thủy, và những chàng trai hoang đàng mà sau cùng hóa ra lại đúng. Bây giờ bà áp dụng kết luận đó cho ký ức về Charlie Spillane và cho con tim đích thực của ông, chỉ càng trở nên đích thực một cách sâu sắc, và quan trọng, với bà sau bao năm. Nếu con người chỉ bị thời gian hé lộ ra, thì con người bị hé lộ ra với bà dưới lốt Charlie Spilanne là tốt vô cùng tận - chỉ thế thôi - với mọi trò tránh né và hối tiếc của ông, với con mắt giỏi đánh giá con gái và cơ hội để tận dụng, thực chất của chồng bà đã sáng tỏ rạch ròi hơn với bà, vì ông đã chết.
Đó là một bí ẩn lớn: tính thiện.
Ada chấm phần mềm của ngón tay vào những vụn bánh cuối cùng, rồi không đưa nó lên miệng được. Bà phủi hết nó đi, cho rớt xuống sàn, và bà nhớ chồng, và mọi đàn ông bà từng biết mà nay đã chết. Mỗi người trong bọn họ đều để lại một phẩm chất; điều gì đó rõ rệt và khó nắm bắt. Nếu Ada có tin vào điều gì thì bà tin vào sự tồn tại kiên định này, thứ mà người khác có thể gọi là hồn.
Trong trường hợp đó Lambert Nugent chẳng có hồn nào cả, hoặc không có thứ hồn mà bà có thể tìm thấy. Nugent là loại người phát điên lên vì bạn trong phút chốc; thời gian còn lại ông ta gần như không chú ý gì đến bạn. Cậu trai trẻ hăng hái, người đàn ông run rẩy, ngọn lửa trắng của tuổi già; bà đã thấy từng giai đoạn đó trong các thoáng chốc, phần còn lại là một đám mờ mịt những nhận xét nho nhỏ và những cái liếc qua chỗ khác, những thứ giấu đi trước khi chúng kịp phơi lộ ra.
Cái ông ngốc nghếch ấy có gì phải giấu?
Khi Nugent già đi, miệng ông ta trở nên tham lam hơn quanh món bánh quy của bà, và lưỡi và họng của ông ta, toàn bộ guồng máy vị giác của ông ta là thứ sinh động và dịu dàng nhất ở ông. Đôi khi Ada cảm thấy ông ta thèm muốn bánh quy hơn là thèm muốn khoản tiền thuê nhà, ông có một cái lưỡi ưa ngọt như thế. Ông quả là một đứa trẻ. Có lẽ đó là điều bí mật - sự thực ông chỉ và mãi mãi lên năm. Hoặc hai tuổi.
Ôi, Nolly May.
Bà mẹ nào đó có cả đống chuyện phải chịu trách nhiệm, bà nghĩ. Chúa thương xót linh hồn ông ta (nếu Người tìm được nó).
Bà nhấp một ngụm cà phê trước khi lát bánh kem sữa được nhai và ăn sạch, và điều này, đột nhiên, khiến bà khó chịu. Ada ghét trộn lộn các thứ trong miệng bà. Bà ghét trộn lộn các thứ ở nhà. Cuộc sống của bà ngày càng giống như vậy, ngửi ngửi quần áo trong tủ ngăn kéo cũ và giặt chúng lần nữa. Ngày càng nhiều, bà đặt các khăn lau bộ đồ trà trong lần giặt khác với các khăn tắm, hoặc không bỏ giặt chúng gì cả, mà luộc chúng trên bếp lò.
Bà đứng dậy và sắp xếp các thứ của bà, thầm nghĩ, khi bà làm thế, về chứng phình mạch máu đã kết liễu Nugent, tự hỏi nó có đau không - chắc chắn chẳng có dây thần kinh nào trong đó để cảm thấy cơn đau. Dĩ nhiên ngoại trừ chuyện bộ não của bạn ở cùng chỗ với cơn đau theo cách nào đó, nên có lẽ đó là cách chết tệ nhất trong mọi cách.
Và thế là bà bước ra trong tiếng rền vang và ánh sáng của phố Grafton, với những cỗ xe buýt vụt qua, và, khi bà làm thế, trở lại là một đứa trẻ.
Ada với va li của bà, vào ngày mẹ bà chết.
Làm sao bà xoay và mang va li ra khỏi nhà được. Và mọi thứ vốn có vẻ bất khả rốt cuộc lại có thể xảy ra. Bà được Thượng đế ban cho đôi chân, để đặt cái này sau cái kia để bà có thể bước ra đó, và bà được ban cho đôi tay, để mở đường đi qua cuộc đời, và bà không nhìn lại.