← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 11

Chỗ này còn trên mức kinh tởm,” Jamison nhận xét. “Họ có bao giờ lau dọn những căn phòng này không?”

Tấm thảm trải sàn đã sờn rách và ố bẩn. Cái giường nhỏ không được dọn. Không khí tỏa ra thứ mùi hôi hám, ẩm mốc. Sơn tường đã sùi và bong tróc. Mấy thứ đồ nội thất ít ỏi trong phòng trông như cả mấy chục tuổi và ở trong tình trạng rất cần được sửa chữa. Chỉ có một cái bóng đèn để trần duy nhất bám trên trần giống như một con hàu bám vào thành tàu.

Ánh mắt Jamison hướng xuống sàn, có một gói bao cao su đã mở nằm chỏng chơ đó.

“Được rồi, tôi sẽ tiêm một mũi phòng uốn ván ngay khi chúng ta ra khỏi chỗ này.”

Decker đang đi vòng quanh phòng để thu mọi thứ vào mắt. Những gì anh quan sát được sẽ in hằn như những thước phim trong tâm trí rồi tải lên bộ nhớ đám mây cấu thành trí nhớ gần như không bao giờ sai lầm của anh. “Ít nhất, chúng ta sẽ cần kiểm tra mọi dấu vân tay thu được tại đây và cố gắng thực hiện một sàng lọc loại trừ.”

Kelly nói, “À, từ những gì Erie nói với chúng ta, dường như Cramer và anh chàng trẻ tuổi lắm tiền đã mây mưa với nhau tối đó.”

“Phải, đúng thế,” Jamison nói. “Và có thể anh chàng nọ hạnh phúc đến vậy vì cô ấy đã không tính tiền cho lần vui vẻ đó.”

“Và Ernie nói Cramer cũng có vẻ hạnh phúc. Tôi đang tự hỏi tại sao?”

Decker nói, “Chúng ta cần phải lần lại từng bước đi của cô ấy, mỗi phút của mỗi ngày. Thế này nhé, bà Simms đã nói với chúng ta rằng Cramer dự định thực hiện một chuyến đi.” Anh nhìn Kelly. “Lúc này là đầu tháng Chín, vậy nên tôi đoán trường học vừa mới vào năm học. Trừ khi, Các Huynh đệ có thời gian biểu khác.”

“Không, họ cũng theo thời gian biểu truyền thống về việc đó.”

“Cô ấy có phải giáo viên duy nhất ở đó không?”

“Ngoại trừ người phụ nữ sống tại đó và là thành viên của khu Cư xá của Các Huynh đệ. Cramer dạy các môn mà bang yêu cầu theo giáo dục bắt buộc, Anh văn, Xã hội học, Toán, những môn kiểu đó.”

“Vậy họ sẽ xoay xở thế nào khi cô ấy vắng mặt?” Jamison hỏi.

“Nhiều khả năng chỉ đơn giản là để một giáo viên khác dạy lũ trẻ. Thành viên của Các Huynh đệ chỉ tới trường học cho tới mười lăm tuổi. Một tuần lễ sẽ không có ý nghĩa nhiều lắm.”

Decker nói, “Vậy chúng ta tới nói chuyện với Các Huynh đệ.”

“Chúng ta sẽ phải thu xếp một cuộc hẹn.”

Decker cau mày. “Sao cơ, họ bận rộn tới vậy ư?”

“Chỉ là phép lịch sự thông thường”

“Được. Vậy anh hãy gọi điện cho họ và nói với họ chúng ta đang trên đường đến.”

“Decker, họ có thể sẽ không thích chúng ta quấy quả đột ngột như thế.”

Decker nhìn chằm chằm vào Kelly. “Tôi không nghĩ Irene Cramer thích bị sát hại. Vì thế, tôi sẽ ưu tiên việc tìm ra kẻ giết cô ấy càng nhanh càng tốt hơn là lo đến việc ai đó có thể cảm thấy bị tổn thương vì một cuộc gặp.” Anh nghiêm khắc nhìn viên cảnh sát địa phương. “Đây là một cuộc điều tra án mạng, Kelly. Không gì được đặt lên trên nó, ít nhất theo cách nhìn của tôi. Nếu anh nghĩ khác, chúng ta có thể gặp vấn đề khi làm việc cùng nhau.”

Kelly đưa mắt nhìn Jamison rồi trở lại nhìn Decker. “Tôi không có vấn đề gì với chuyện đó cả.”

“Rất vui được nghe vậy. Đi thôi.”

“Cái kia là thứ quái gì vậy?” Jamison hỏi.

Họ đang ngồi trong chiếc SUV thuê chạy về phía đông. Họ đã vượt qua một đoạn đường hơi nhô lên giữa vùng đất bằng phẳng và thấy một thứ trông như kim tự tháp Ai Cập với phần đỉnh bị cắt đi trong khi một thứ khác giống như quả bóng golf khổng lồ đặt trên phần mặt phẳng đó. Công trình này cao khoảng bốn mươi lăm mét và được xây dựng từ thứ vật liệu trông có vẻ là đá. Nó khiến các tòa nhà khác tọa lạc đằng sau trở nên nhỏ bé, tất cả đều được bao quanh bằng hàng rào kép với dây thép gai chăng quanh.

“Đó là Phức hợp Quốc phòng Douglas S. George, còn được gọi là Trạm Không lực London,” Kelly trả lời, anh đang ngồi cạnh Jamison.

Cô nói, “Trạm Không lực? Tôi không thấy máy bay hay đường băng nào cả.”

“Nó không phải căn cứ Không quân. Đó là một trạm của Không lực. Cho dù đúng là họ có đường băng cho máy bay và cả bãi đáp trực thăng. Và một hệ thống radar cực mạnh được lắp đặt trong quả cầu đó. Nó có thể nhìn thấu vào không gian. Đây là một phần của hệ thống cảnh báo sớm trong trường hợp ai đó bắn tên lửa mang đầu đạn hạt nhân vào Bắc Mỹ.”

“Ở mãi tận đây sao?” Jamison bình phẩm.

“Tôi đoán một số chính trị gia từ Bắc Dakota đã vận động hành lang rất tích cực cho nó. Nhưng trông nó thực xấu xí, thế nên cô có muốn thứ gì như thế ở sân sau nhà mình không? Dù gì đi nữa, nó đã tồn tại ở đây từ những năm 50, rất lâu trước khi tôi ra đời.” Anh chỉ vào con đường sắp tới phía trước. “Rẽ vào ngay kia, Alex."

Cô làm theo và họ thấy mình chạy qua khá gần trạm radar của Không lực.

“Không còn xa nữa,” Kelly nói. “Chỉ đi tiếp một chút phía trước rồi rẽ trái và thế là tới.”

Decker trông có vẻ ngỡ ngàng. “Nhưng có vẻ như chúng ta vẫn còn trong khu vực thuộc Không lực.”

Kelly mỉm cười. “Chừng mười năm trước, phần lớn tài sản được đưa ra bán đấu giá và Các Huynh đệ đã mua lại. Rồi gần đây, các nhà khai thác dầu thuê lại một phần đất từ họ.”

“Các Huynh đệ mua từ chính quyền liên bang một khu đất có một căn cứ của Không lực ư?” Jamison hỏi, vẻ ngạc nhiên.

“Tôi đoán Chú Sam đang cố cắt giảm chi phí, hoặc họ không cần toàn bộ diện tích đất. Và tất nhiên Các Huynh đệ cũng không mua trạm radar của Không lực, mà chỉ những mẫu đất thừa ra thôi. Các Huynh đệ thực sự cần khu đất đó. Họ đã thiết lập vài khu định cư mới và họ cần đất đai để thiết lập trang trại cùng các hoạt động khác.”

“Tôi nói lại xem có đúng không nhé, các vị có một giáo phái cày ruộng ngay cạnh một con mắt của chính phủ giám sát bầu trời để tìm kiếm tên lửa mang đầu đạn hạt nhân bắn tới chỗ chúng ta?”

“Chuyện này có thể thành chủ đề cho một vở hài kịch tuyệt vời trên 'Saturday Night Live',” Kelly nhận xét.

Jamison rẽ trái ở ngã rẽ tiếp theo, rồi sau khi chạy xe thêm bốn trăm mét nữa theo một con đường vừa trải nhựa, họ tới khu đất có rào bao quanh của Các Huynh đệ.

Kelly đã gọi điện thoại trước, và có hai người đàn ông chờ sẵn cạnh cánh cổng lớn bằng kim loại của trang trại. Ngay cả trong thời tiết nóng nực, ẩm ướt cả hai người vẫn mặc trang phục dày, sẫm màu nặng nề và đội mũ phớt đen cũ sờn có dải lụa trang trí màu xám. Bộ râu được để dài phủ kín hai bên quai hàm và cằm. Một người đeo cặp kính kẹp mũi lỗi thời. Người còn lại, trẻ hơn chừng mười tuổi so với người đồng hành đã gần sáu mươi, tò mò chăm chăm nhìn vào họ qua cặp kính gọng sừng. Ở sau họ chừng ba mươi mét là một phụ nữ cao ráo đã ngoài tứ tuần với mái tóc nâu điểm bạc, mặc váy dài có những dải màu sặc sỡ và quàng một chiếc khăn chấm bi trắng. Chị này cũng đang chăm chú quan sát ba người.

Từ xa, Decker có thể thấy những ngôi nhà xây bằng gạch xỉ thấp tè, trước mỗi nhà là những khoảnh sân trồng cỏ được cắt xén chu đáo hoặc rải sỏi. Có những tòa nhà lớn lợp tôn kim loại lượn sóng, vài silo đựng ngũ cốc, những khu ruộng canh tác có rào bao quanh, và nhiều máy nông nghiệp hạng nặng được xếp ngay hàng thẳng lối bên cạnh vài thiết bị khác có vẻ sẽ được dùng cho công việc xây dựng hay chế tạo nào đó theo nhìn nhận của Decker. Mọi thứ được bố trí một cách có cân nhắc và chính xác, anh thầm nghĩ.

“Như tôi đã nói từ trước, ở đây cuộc sống hoàn toàn mang tính cộng đồng” Kelly nói khi chiếc SUV dừng lại. “Thực sự không có tài sản cá nhân nào, ngoại trừ quần áo ta mặc và những gì ta có trong ngôi nhà của mình.”

“Những ngôi nhà lớn?” Jamison hỏi.

“Họ bán trứng và rau, cũng như các thứ khác họ nuôi trồng. Họ cũng sản xuất đồ nội thất, một vài đồ chế tạo và cả đồ kim loại nữa. Đám người khai thác dầu mua đồ từ họ. Họ có cả một đội quân xe tải của riêng mình để chuyên chở mọi thứ. Xét toàn diện thì đó là một hoạt động có quy mô tương đối lớn. Họ tự cung tự cấp. Tiếng Anh của họ hoàn hảo, cho dù ngôn ngữ thứ nhất họ nói là tiếng Đức.”

“Và anh vẫn chưa cho họ biết vì sao chúng ta ở đây?” Jamison hỏi.

Khuôn mặt Kelly tối sầm lại. “Không, qua điện thoại thì không. Tin này sẽ như một cú sốc.”

“Tôi thật ngạc nhiên là họ có điện thoại,” Jamison nói.

“À, nói đúng ra thì họ không chấp nhận TV hay Internet. Nhưng các thành viên trẻ tuổi hơn trên thực tế có dùng Facebook, Instagram và thư điện tử để liên lạc với bạn bè, cho dù chuyện này bị giám sát chặt chẽ. Và điện thoại di động cần thiết cho công việc làm ăn và chuyện riêng, do vậy họ cũng có dùng. Chỉ có duy nhất một đường dây điện thoại cố định trung tâm. Họ lo rằng thế giới bên ngoài sẽ cố gắng xâm phạm họ.”

“Và có thể thuyết phục vài thành viên trẻ tuổi rời đi chăng?” Jamison nói.

“Thế giới bên ngoài có thể rất hấp dẫn, cho dù vì những lý do sai trái,” Kelly thừa nhận.

Họ ra khỏi xe và lại gần hai người đàn ông, hai người này bước tới chìa tay ra chào mừng. Cả chủ và khách cùng giới thiệu lẫn nhau.

Người đàn ông lớn tuổi hơn là Peter Gunther, quản xứ của khu định cư này, và người đi cùng ông là Milton Ames, thư ký. Người phụ nữ đứng sau là Susan, vợ của Ames, người chồng cho các vị khách biết. “Cô ấy là thợ may của khu,” Gunther cho hay.

“Và như thế có nghĩa là gì?” Jamison tò mò hỏi.

“Cô ấy lựa chọn tất cả quần áo, hay ít nhất là vải và chịu trách nhiệm may quần áo,” Ames giải thích.

Jamison quay người vẫy tay chào người phụ nữ, nhưng người này chỉ chằm chằm nhìn lại mà không hồi đáp lại cử chỉ của cô.

Gunther cảnh giác nhìn Decker. “Vậy cậu là người của FBI? Joe không nói rõ vì sao các vị muốn gặp chúng tôi.”

Kelly nói, “Chúng ta có thể vào trong chứ? Chúng tôi sẽ cho ông biết vì sao chúng tôi tới đây, nhưng lý do sẽ không vui vẻ đâu.”

Gunther và Ames đưa mắt nhìn nhau. Gunther quay người dẫn họ về phía một trong các ngôi nhà.

Ngôi nhà này là một nhà ăn chung, sạch đến mức đáng kinh ngạc với hai cái bàn dài kiểu dùng để đi picnic kê dọc theo mỗi bức tường và một cái bàn tương tự kê giữa phòng. Các thiết bị đều có vẻ cao cấp. Một phụ nữ mặc trang phục giống Susan Ames đang lấy một số nhu yếu phẩm ra khỏi bao gói và xếp ngay ngắn lên các ngăn tủ phía trên đầu.

“Thứ lỗi cho chúng tôi, Martha,” Gunther nói. “Chúng tôi cần nói chuyện với mấy vị này về một chuyện quan trọng” Martha ngờ vực đưa mắt nhìn Decker và Jamison rồi hối hả đi sang phòng khác.

Họ ngồi xuống bên cái bàn kê giữa phòng. Gunther áp hai bàn tay vào nhau.

“Nào, vì sao các vị tới đây?” Gunther hỏi Kelly.

"Irene Cramer."

Gunther kinh ngạc nhìn Kelly. “Irene? Có chuyện gì với cô ấy vậy?”

Decker chen vào. “Theo chúng tôi biết, cô ấy đang đi nghỉ?”

Ames lên tiếng. “Đúng thế. Trường học của chúng tôi mới chỉ vừa khai giảng trở lại. Nhưng chúng tôi không thấy có lý do nào không cho phép cô ấy đi. Cô ấy phối hợp cùng Doris, giáo viên của khu Cư xá. Mới chỉ chừng một tuần trước thôi. Cô ấy sẽ sớm trở lại.”

“Cô ấy đã nói với ông về chuyến đi lúc nào vậy?” Jamison hỏi.

Gunther nói, “Tại sao toàn câu hỏi về Irene vậy?”

Kelly liếc nhìn Decker, anh gật đầu. “Irene được tìm thấy đã chết,” Kelly nói với Gunther.

“Đã chết?” Gunther thốt lên kinh hoàng. “Ở đâu? Như thế nào?”

“Về ‘ở đâu', địa điểm là ngoài đồng không mông quạnh. Cô ấy được một thợ săn tìm thấy. Về 'như thế nào', cô ấy đã bị sát hại.”

“À, tôi không hề ngạc nhiên.”

Tất cả họ cùng quay sang nhìn Susan Ames đang đứng trên ngưỡng cửa nơi lúc trước Martha đã đi qua.

“Susan?” Ames thốt lên. “Có Chúa chứng giám, em nói không ngạc nhiên là ý gì?”

“Mindy hả? Chuyện đó chỉ là vấn đề thời gian mà thôi.”