← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 27

“Chỗ này trông như trung tâm chỉ huy vậy," Jamison nói.

Cô và Decker đang ở trong một toa moóc giống như một căn phòng. Hai người nhìn chăm chú vào một dãy các màn hình máy tính đặt trên mặt ván gỗ của một cái bàn dài. Họ đang có mặt ở một giếng khoan dầu trong quá trình được cắt phá thủy lực. Baker ngồi trên chiếc ghế xoay trước mặt dãy máy tính để bàn, theo dõi từng màn hình. Toa moóc có một phòng tắm, một điều hòa nhiệt độ lắp cửa sổ, bên trong khá dễ chịu.

“Chỗ này chính là trung tâm chỉ huy đấy,” Baker nói. “Thực ra, chúng tôi gọi nó là trung tâm dữ liệu vì quả đúng là thế thật,” anh nói thêm, chỉ vào các màn hình. “Dữ liệu.”

Jamison chỉ vào lon cà phê Maxwell House để trên bàn, vẫn đậy nắp nhựa. “Anh có máy pha cà phê Keurig ở ngay kia, vậy thì cái đó để làm gì vậy?”

“Đừng mở cái nắp đó ra,” Baker cười hết cỡ cảnh báo. “Đó là ống nhổ của người giám sát còn lại. Chúng tôi không thể hút thuốc ở bất cứ nơi nào quanh một giếng khoan dầu, vậy nên những gã nghiện nicotin nhai thuốc lá thay vì hút.”

“Tuyệt, cảm ơn đã báo trước,” Jamison nói, vẻ khá kinh tởm.

Baker chỉ vào một màn hình. “Cái này giám sát thể tích chất lỏng cắt phá thủy lực mà chúng tôi bơm xuống lỗ khoan mỗi giây.”

“Giám sát nó kỹ lưỡng thế có quan trọng đến vậy không?” Jamison hỏi.

“Ồ, có chứ, vì dịch bơm xuống có thể phụt ngang ra rất nhanh và có thể gây tổn thương cho người, và cuối cùng ta có thể làm hỏng cả một vị trí đầu giếng. Không ai muốn chuyện đó xảy ra. Bây giờ, chúng tôi mới đang bắt đầu cắt phá thủy lực ở giếng này. Toàn bộ việc khoan và đặt ống đã được một đội riêng biệt thực hiện.”

“Tất cả quá trình đó vận hành thế nào?” Decker hỏi.

“Lòng giếng ban đầu được khoan. Sau khi việc này hoàn tất, ống và mũi khoan được lấy ra. Rồi một ống thép, mà bọn tôi gọi là ống định hướng, được luồn xuống lỗ khoan. Nó làm cho thành giếng khoan trở nên cứng chắc, vững vàng, đồng thời cũng ngăn rò rỉ ra ngoài. Sau đó, xi măng được bơm xuống để giữ chắc cái ống. Chúng tôi điều áp giếng khoan để đảm bảo nó đã ổn thỏa, kiểu như thử nghiệm thân máy bay vậy. Rồi ống cùng mũi khoan lại được đưa xuống và quá trình khoan tiếp tục theo phương thẳng đứng. Khi quá trình này hoàn thành, việc khoan theo phương nằm ngang bắt đầu. Chúng tôi hạ thêm các ống định hướng xuống, bơm thêm xi măng để đảm bảo mọi thứ được chắc chắn. Khi tất cả đã xong xuôi, đến việc đưa chất lỏng cắt phá thủy lực vào. Tất cả được thực hiện theo các giai đoạn. Và mỗi giai đoạn mất khoảng hai giờ.”

“Có bao nhiêu giai đoạn?” Decker hỏi.

“Gần một trăm,” Baker nói.

“Chúa lòng lành,” Jamison thốt lên. “Tại sao lại nhiều như vậy?”

“Chúng tôi khoan sâu xuống một đoạn dài, và phải phá vỡ đá đúng cách, đúng hướng.” Anh đi tới cạnh cửa sổ và chỉ ra ngoài. “Những chiếc xe tải ấy sẽ bơm hỗn hợp chất lỏng vào đầu giếng qua tất cả các đường ống được kết nối đó. Hiện giờ, chúng tôi có cả một xe tải pháo binh là nơi người ta chuẩn bị chất nổ cần thiết và gắn súng cắt nổ với súng phá vỉa.”

“Một xe tải pháo binh,” Jamison thốt lên. “Nghe như các anh đi tham chiến vậy.”

“Theo một cách nhìn nhận thì đúng là chúng tôi đang chiến đấu, chống lại một thứ đá thực sự rắn chắc ở sâu dưới lòng đất, đã hàng tỷ năm tuổi và trước đó chưa bao giờ bị quấy rầy. Chúng tôi đưa thiết bị súng xuống để cắt phá, tạo ra những khe nứt trong khối đá. Sau đó, thiết bị phá vỉa sẽ mở dài các khe nứt cho tới tận vỉa dầu, giống như những ngón tay thọc vào để mọi tìm thứ gì đó vậy. Sau đó, chúng tôi thả một quả bóng xuống rồi gắn chốt. Việc đó sẽ cô lập khu vực chúng tôi quan tâm, và đó là lúc chúng tôi bắt đầu xối chất lỏng cắt phá vào các khe nứt trong khối đá.”

“Thứ chất lỏng này gồm những gì vậy?” Decker hỏi.

Baker dẫn họ trở lại chỗ các màn hình. “Đó là một thứ hỗn hợp được pha trộn rất cẩn thận. Cát và nước ngọt chiếm chín mươi chín phẩy năm phần trăm thứ chúng tôi bơm xuống lỗ khoan. Còn lại là hóa chất - chất sát khuẩn diệt vi khuẩn trong nước để chúng không làm nhiễm bẩn sản phẩm, rồi các hóa chất khác để cung cấp độ nhớt cho chất lỏng. Gồm hạt guar, ma-giê clorid, barit, acid hydrochloric và acid citric, ethanol và methanol, muối erythorbat. Tất cả những thứ này có mục đích sử dụng khác nhau. Một số giúp tạo gel, số khác kiểm soát sắt, chống ăn mòn, làm ổn định đất, giảm ma sát, tạo liên kết chéo, và còn nhiều nữa.” Anh cười hết cỡ. “Khỉ thật, có những ngày tôi cảm thấy như mình đã giành được bằng hóa học đến ba lần. Những đồ thị trên này thể hiện áp suất psi trong ống. Lúc bắt đầu, chúng tôi sử dụng cát thông thường, mà chúng tôi gọi là chất chèn, rồi sau đó đổi sang cát gốm, thứ này giữ các vết nứt mở rộng hơn.” Anh đưa mắt nhìn Decker. “Giống như thứ 'stent′ cậu so sánh dùng để khai thông động mạch. Chúng tôi dùng khoảng một trăm mười ba nghìn kilogram chất chèn cho một giai đoạn.”

“Nhiều hơn một thùng cát đầy rất nhiều,” Decker nhận xét.

“Đó là lý do tại sao cậu thấy cả đống những chiếc xe tải chở cát tới,” Baker trả lời. “Không có cát thì không bước nào trong cả quá trình này vận hành được. Cát tự nhiên được chở từ Wisconsin. Cát gốm được nhập khẩu từ Trung Quốc.”

“Vậy là vùng Bakken đầy ắp dầu cùng khí đốt?” Decker nói.

“Khu vực tây bắc Bắc Dakota đã trúng số độc đắc về trữ lượng nhiên liệu hóa thạch. Tổng cộng thì bang này đang bơm lên khỏi lòng đất chừng hai triệu thùng dầu mỗi ngày. Để cậu có chút hình dung, chỉ riêng Ả Rập sản xuất mười hai triệu thùng mỗi ngày. Tổng cộng lại, vùng Trung Đông nắm khoảng một nửa trữ lượng dầu đã được tìm thấy của toàn thế giới. Và hơn bốn mươi phần trăm khí tự nhiên.”

“Đó là lý do tất cả mọi người để ý tới những gì xảy ra ở đó,” Decker nhận xét.

“Vậy là phần lớn dầu được chở đi bằng xe tải?” Jamison hỏi.

“Không, kỳ thực thì phần lớn dầu khai thác tại đây được vận chuyển qua Đường ống dẫn Dakota, cách này rẻ hơn nhiều so với dùng xe tải vận chuyển đến ga tàu. Nhưng đường ống đó nhanh chóng bị quá tải, thế là người ta đang lắp đặt một tuyến đường ống nữa.”

Jamison nói, “Và đây là một trong các hoạt động làm ăn của Stuart McClellan?"

“Đúng thế.”

Decker nói, “Trạm Không lực nằm gần nơi này. Và khu Cư xá của Các Huynh đệ cũng vậy.”

“Phải. Các giếng dầu của McClellan là những giếng duy nhất ở gần đây, ngoại trừ một công ty cũng tọa lạc gần Trạm Không lực.”

“Thế còn tất cả những ngọn lửa đốt khí đó?” Jamison hỏi. “Như vậy chẳng phải lãng phí sao?”

“Đúng thế,” Baker thừa nhận. “Nhưng ở đây không có đủ đường ống để vận chuyển khí. Và cho dù có đủ đi nữa, khí ở đây có tỷ lệ phần trăm hydrocarbon cao. Những nhà vận hành đường ống ghét chuyện này vì nó có thể gây tắc đường ống.”

“Vậy giải pháp là gì?” Decker hỏi.

“Họ đang hướng tới công nghệ tách khí methan ra khỏi hydrocarbon ngay tại địa điểm khai thác.”

“Có vấn đề gì xảy ra trong quá trình cắt phá thủy lực không?” Decker hỏi.

Baker gật đầu. “Một hiện tượng được gọi là tắt máy khá hay gặp. Chuyện này xảy ra khi cát làm tắc các khe phá vỉa. Bơm tự động tắt khi hiện tượng này xảy ra vì áp suất tăng vọt và các chuông báo động được kích hoạt.”

“Các anh khắc phục hiện tượng này thế nào?” Jamison hỏi.

“Chúng tôi mở giếng ra và hút lên một lượng lớn chất lỏng mà chúng tôi vừa bơm xuống để làm sạch chỗ tắc. Nếu có những vấn đề nghiêm trọng hơn, như một giếng dầu cần có biện pháp can thiệp xâm lấn nào đó vì tình trạng xuống cấp, thiết bị đã bị ăn mòn, hay điều kiện của túi dầu đã thay đổi, thì chúng tôi sẽ cho gọi đội bảo dưỡng giếng. Họ sẽ dòng xuống một đường dây để hạ xuống cả thiết bị đo lẫn thiết bị thử nghiệm để tìm hiểu xem vấn đề là gì và tìm ra giải pháp. Thường họ luôn có thể tìm ra câu trả lời và đưa giếng dầu trở lại hoạt động.”

Trông Decker có vẻ bị ấn tượng. “Thế mà em luôn nghĩ anh chỉ là một gã đào hố bằng xẻng.”

Baker cười hết cỡ. “À, tôi cũng làm cả loại việc đó nữa, hồi trước. Bây giờ, tất cả là chuyện về công nghệ, khoa học và kỹ thuật. Nhưng, thế đấy, giờ tôi làm việc trong một toa moóc với toilet riêng, có điều hòa nhiệt độ vào mùa hè và lò sưởi vào mùa đông.”

“Quả là một hoạt động đồ sộ đấy,” Jamison nhận xét.

“Anh dự kiến sẽ ở đây bao lâu, Stan?” Decker hỏi.

“Đủ lâu để tiết kiệm được số tiền tôi cần cho việc nghỉ hưu và lo cho bọn trẻ cùng việc học hành của chúng. Sau đó, tôi sẽ tới Florida, quăng cái điện thoại di động của tôi xuống đại dương, và đi câu cá. Và tôi sẽ không dừng lại cho tới khi ngoẻo.”

“Bây giờ, hãy nói cho em biết những gì anh nhớ về anh chàng đã nói tới quả bom hẹn giờ,” Decker nói. “Tên anh ta là Ben phải không?

“Phải, ít nhất anh ta nói thế.”

“Thế còn họ?"

Baker vuốt mặt và ngồi lại xuống ghế. “Tôi không rõ. Đã hơn một năm rồi, lúc ấy có rất nhiều người xung quanh và tôi thì lại đang uống bia.”

“Anh chắc là anh ta tại ngũ trong Không lực chứ?”

“Phải, anh ta mặc quân phục rằn ri và anh ta nói mình được phân công tới đó.”

Decker nói, “Nếu bọn em cho anh xem ảnh những người đã làm việc tại đó thì sao? Như thế có giúp được gì không?”

“Có thể, chắc vậy. Nhưng các cậu định làm việc đó thế nào? Tôi đã ở trong quân đội. Họ không thích cung cấp thông tin cho bất cứ ai.”

Decker liếc nhìn Jamison. “Bọn em sẽ nghĩ ra cách gì đó.”