← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 52

Trang trại trông như bước ra từ Chùm nho thịnh nộ , chỉ là ít bụi hơn và có nguồn nước tối thiểu.

Họ dừng lại trước ngôi nhà vách ván gỗ và ra khỏi xe. Có một chiếc Jeep hai cửa bẩn thỉu cũ kỹ đỗ trước cửa. Hai người có thể thấy một nhà kho ở đằng xa, và những bãi rào quây gia súc đông nghịt những con bò đang xúm lại quanh một máng nước và khối muối cho bò liếm. Cũng có cả một bãi chăn ngựa nơi vài con ngựa gù lưng gặm cỏ. Cả khu trại trông ngăn nắp và hiệu quả.

Cái hộp thư nằm nghiêng ở cuối con đường đất có ghi PURDY, vì thế họ biết mình đã đến đúng chỗ.

Trước khi hai người đi tới bậc cấp trước nhà, cánh cửa lưới mở ra và một phụ nữ đứng đó, cầm trên tay khẩu súng Remington bắn đạn ghém hai nòng kiểu trên-dưới. Bà khoảng giữa tuổi năm mươi, với mái tóc dài ngả xám, thân hình mảnh dẻ, dẻo dai và đôi mắt xanh sắc sảo. Bà mặc quần vải thô bạc màu, đi đôi ủng cũ và mặc một chiếc áo sơ mi ca rô bỏ trong quần. Giữ bộ quần áo này lại với nhau là một chiếc thắt lưng da thắt nút. Khuôn mặt người phụ nữ đầy nếp nhăn, rám nắng. Và đầy nghi ngờ.

“Các người là ai?” Người phụ nữ hỏi.

Jamison lập tức lấy thẻ và phù hiệu FBI của cô ra.

“Đặc vụ FBI Alex Jamison. Đồng đội của tôi, Amos Decker. Bà có phải là Beverly Purdy không?"

Thay vì làm dịu tình hình, lời giới thiệu này chỉ khiến người phụ nữ giơ súng lên chĩa thẳng vào họ, ngón tay bà đặt ngay gần cò súng. “Các người muốn cái quái gì? Các người nói cho tôi biết ngay!”

Decker bước tới trước, đặt mình chắn giữa Jamison và khẩu súng. “Chúng tôi muốn nói chuyện với Ben, nếu anh ấy ở đây.”

Người phụ nữ gắt gỏng. “Nó không có đây. Tại sao các người muốn nói chuyện với nó?”

“Chúng tôi không phải bên Không lực, nếu đó là điều bà đang nghĩ. Và chúng tôi không hề quan tâm tới việc liệu anh ấy có đào ngũ hay không. Chúng tôi chỉ muốn nói chuyện với anh ấy về vị trí đóng quân cuối cùng của anh ấy, ở London, Bắc Dakota.”

“Nói láo. Các người tới để bắt nó.”

“Tại sao chúng tôi lại làm thế?”

“Các người vừa nói đó. Đào ngũ.”

“Chúng tôi đang điều tra một chuỗi án mạng ở London.”

“Ben không giết ai cả.”

“Chúng tôi không cho là anh ấy giết người. Anh ấy đã rời đi từ lâu trước khi các vụ giết người diễn ra. Nhưng anh ấy đã nói một điều với một người tại London. Chúng tôi chỉ muốn hỏi ý anh ấy muốn nói gì. Chúng tôi tin điều đó có thể liên quan tới cuộc điều tra của chúng tôi.”

Người phụ nữ từ từ hạ súng xuống. “Nó không có đây, như tôi đã nói.”

“Anh ấy đã từng ở đây chứ?”

“Có thể,” bà ta nói với vẻ dè chừng.

“Bà có biết chúng tôi có thể tìm được anh ấy ở đâu không?”

Bà lắc đầu. “Không biết. Lâu rồi không có tin tức gì của nó.”

“Và chắc hẳn bà rất lo lắng?” Jamison nói, tới đứng bên cạnh Decker.

“Tôi là má nó, tất nhiên tôi lo lắng.”

“Vậy đấy, chúng tôi cũng lo lắng về anh ấy, thế nên biết đâu chúng ta có thể cùng nhau tìm anh ấy.”

“Tôi... tôi không biết.”

“Tôi biết là bà nghi ngờ, bà Purdy. Vậy để thể hiện thành ý của mình, bây giờ chúng tôi sẽ rời đi. Nhưng liệu tôi có thể gửi lại bà thông tin liên lạc để anh ấy có thể gọi cho chúng tôi nếu bà gặp anh ấy chứ? Chúng tôi chỉ muốn nói chuyện với con trai bà, không phải muốn bắt anh ấy. Tất cả chỉ có vậy.” Anh lấy một tấm danh thiếp từ trong túi áo khoác ra và đưa nó cho người phụ nữ.

Bà nhìn mảnh giấy với vẻ cảnh giác, như thể nếu chạm vào nó là sẽ bị đau. Nhưng bà có vẻ đã yên tâm rằng hai người không tới để bắt con trai mình, và nói, “Xem nào, các vị có muốn vào không? Tôi vừa mới pha ít cà phê.”

Decker liếc nhìn Jamison và nói, “Nghe có vẻ hay đấy. Chuyến đi cũng khá dài. Và ở đây lạnh hơn ở Bắc Dakota.”

Họ theo người phụ nữ vào trong nhà. Nổi bật trong căn phòng đằng trước là những cái đầu động vật gắn trên tường.

Purdy thấy Jamison tròn mắt nhìn và nói, “Chồng tôi và Ben là những thợ săn đầy đam mê. Phần lớn mọi người ở vùng này đều thế cả. Nhưng không chỉ để trưng đâu. Chúng tôi ăn những con mồi săn được.”

Bà dẫn họ vào một căn bếp nhỏ giản dị với tủ bát đĩa bằng gỗ thông và mặt bàn bếp bằng gỗ Laminate sẫm màu, có hoa văn lượn xoáy. Sàn nhà trải vải sơn cũ kỹ còn đồ nội thất thì mộc mạc. Những tấm rèm quanh cửa sổ trông như thể đã năm mươi năm tuổi. Thời gian có vẻ đã ngừng lại nơi đây.

Bà chủ nhà gác khẩu Remington lên giá súng trên tường và chỉ về phía hai cái ghế kê quanh bàn. “Mời ngồi.”

Hai người ngồi xuống trong khi bà đi lấy cà phê và cốc.

Sau khi rót cà phê và đưa đồ uống mời hai người, bà tới bàn ngồi xuống cùng họ. Người phụ nữ gạt một sợi tóc ra khỏi mắt và nhấp cà phê, không đón nhận ánh mắt tò mò của họ.

“Theo chúng tôi hiểu, bà sống một mình ở đây?” Decker hỏi.

Đôi mắt xanh của bà lóe sáng. “Ai bảo các vị như thế? Các vị theo dõi tôi hả?” Ánh mắt bà hướng về phía khẩu súng bắn đạn ghém. “Các người muốn gì? Nói ngay cho tôi biết.”

“Chúng tôi đã nói với bà rồi,” Decker bình tĩnh trả lời. “Nói chuyện với con trai bà.”

“Đó là những gì các người nói,” người phụ nữ vặn lại với giọng nghi ngờ. “Không có nghĩa nó là sự thật.”

“Đó là sự thật,” Jamison nói. “Chúng tôi chỉ muốn nói chuyện với anh ấy. Chúng tôi không tới đây để bắt con bà. Đó không phải mối bận tâm của chúng tôi. Chúng tôi không có quyền tư pháp gì với binh nghiệp của anh ấy.”

“FBI là FBI,” Bà Purdy gằn giọng.

“Có vẻ là vậy, nhưng thực tế thường không diễn ra như thế, ít nhất trong trường hợp của chúng tôi,” Decker nói.

Cuối cùng, người phụ nữ cũng dịu xuống và nói, “Chồng tôi đã mất ba năm trước. Tôi đang hy vọng Ben có thể trở về đây giúp tôi quán xuyến nơi này. Nhưng điều đó đã không thành.”

Decker nói, “Bà nói với chúng tôi rất có thể anh ấy từng ở đây. Vậy con trai bà có phải đã ở đây không? Anh ấy có nói chuyện với bà về chuyện đã xảy ra ở đó, điều khiến con trai bà rời đi không?”

Bà Purdy mân mê cốc cà phê. “Họ... họ đưa tất cả mọi người đi khỏi chỗ đó. Người của Không lực, Ben và những người khác.

“Phải, một công ty an ninh tư nhân có tên Vector tới quản lý cơ sở đó,” Jamison nói.

“Tôi không biết chuyện này.”

“Con trai bà đã làm gì ở đó?” Decker hỏi.

“Mấy chuyện kỹ thuật. Máy tính và những thứ kiểu đó.” Bà bật ngón tay. “Radar, tôi nghĩ nó đã nói vậy. Nhưng tôi đoán không còn việc ấy nữa.”

“Sao bà lại nói thế?” Jamison hỏi.

“Như tôi vừa nói đấy, họ điều chuyển Ben và những người khác. Tôi đoán không còn ai lưu lại để vận hành mấy thứ như radar. Con trai tôi được đào tạo để làm việc đó, các vị biết đấy. Nó rất giỏi công việc của mình. Thực sự thông minh. Vẫn luôn như thế.”

“Vậy là con trai bà không vui vì bị điều chuyển?” Decker hỏi.

“Phải.”

“Nhưng chắc chắn anh ấy đã từng được điều chuyển trước đó rồi chứ. Ý tôi là một quân nhân sẽ luôn theo sự điều động của quân đội.”

Bà Purdy trông có vẻ lúng túng trước câu nói này. “À, đúng thế. Nó đã ở Nebraska một thời gian, rồi ở Colorado. Sau đó, nó được thuyên chuyển tới Bắc Dakota. Vậy đấy.”

“Con trai bà có bao giờ không vui vì những lần thuyên chuyển đó không?” Decker hỏi.

“Không.”

“Nhưng lần này thì có?”

“Nó... nó gọi tôi hồi hơn một năm trước, vào một buổi tối. Nó nói, "Mẹ, họ đang chuyển bọn con đi. Bọn con sẽ tới chỗ nào đó ở bờ biển phía Đông. Tôi quên mất nơi nó nói là nơi nào rồi, thế rồi sau đó con trai tôi và đồng đội được điều động tới Colorado, tôi nghĩ vậy. Ít nhất là với con trai tôi.”

“Nhưng anh ấy đã không đi?” Decker hỏi.

Bà ngước nhìn anh bồn chồn. “Chắc chắn cậu không tính gây phiền toái cho nó đấy chứ?”

“Tôi cam đoan. Con trai bà có bao giờ nói gì cho thấy anh ấy đang bất an không?”

“Không, không hẳn, nhưng tôi có thể thấy có chuyện gì đó làm nó phiền lòng”

“Anh ấy có biết về những thay đổi đang diễn ra tại trạm không?”

“Không, nó không bao giờ nhắc tới điều gì như thế với tôi cả.”

“Anh ấy có bao giờ nhắc tới Đại tá Mark Sumter không?”

“Không”

“Anh ấy đã từng quay về đây kể từ dạo đó chưa?” Jamison hỏi.

“Một lần,” người phụ nữ nói, nhìn xuống những ngón tay dài, khắc khổ của mình. “Chừng mười tháng trước. Nó sút cân, không dám nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi hỏi có chuyện gì không ổn. Nhưng con trai tôi chỉ nói nó không thể nói với tôi mà không khiến tôi gặp rắc rối.”

“Anh ấy có mặc quân phục không?”

“Không, không phải lúc nào nó cũng mặc quân phục về nhà. Nhưng con trai tôi chỉ mang theo có một chiếc ba lô. Không đủ lớn để đựng quân phục và những thứ khác. Tôi hỏi nó đóng quân ở đâu. 'Ở Colorado à?' Tôi hỏi. Nhưng nó chỉ thay đổi chủ đề. Con trai tôi nói nếu có ai tới tìm nó, hãy nói tôi không hề gặp nó.”

Decker nói, “Và đã có người tới đây tìm con trai bà?”

Người phụ nữ gật đầu. “Không lực. Ba lần. Nói là nó đào ngũ. Đang gặp nhiều rắc rối. Khi Ben về nhà lần duy nhất ấy là lúc tối muộn, và nó không ở lại lâu. Nó rời đi từ lúc tờ mờ sáng hôm sau. Tôi nói với nó về mấy người của Không lực. Nó nói không phải lo. Kể từ lần ấy, tôi chưa gặp lại con trai tôi,” bà nói thêm một cách nặng nề, giọng như vỡ ra.

“Còn có ai khác từng tới tìm anh ấy ngoài Không lực không?” Jamison hỏi.

Bà Purdy uống thêm một ngụm cà phê trước khi trả lời. “Không, chỉ có họ. Không có ai khác.”

Jamison hỏi, “Con trai bà có bạn thân nào ở Bắc Dakota không? Một người đồng ngũ chẳng hạn?”

“Không, nó không nhắc đến ai như thế cả.”

“Con trai bà có từng nhắc tới ai tên là Irene Cramer không?” Decker hỏi.

Bà Purdy ngẫm nghĩ nhưng rồi lắc đầu. “Theo tôi nhớ thì không. Cô ấy là ai vậy?”

“Một trong những người đã bị giết.”

Bà lắc đầu. “Tôi lo muốn phát ốm lên rằng Ben có thể cũng đã chết. Nó chẳng bao giờ biệt tăm lâu thế này mà không gọi cho tôi. Các vị nghĩ chuyện gì đang diễn ra ở nơi đó vậy?”

“Đó là điều chúng tôi đang cố tìm hiểu,” Decker nói. “Ben có phòng ở đây không?”

“Ở đằng sau nhà.”

“Có phải anh ấy đã ngủ ở đó khi về nhà lần cuối cùng?”

“Phải.”

“Bà có phiền nếu chúng tôi xem qua không?”

Người phụ nữ đứng dậy và dẫn hai người đi xuống hành lang.