CHƯƠNG 12 Suy luận
1
“Nguyên cái ‘điển cố’ này đều là bốc phét tán nhảm - toàn bộ đều là sáng tác để thổi phồng làm người xem phát khiếp, thông qua diễn dịch suy luận, tất cả đã sáng tỏ, âm mưu của hắn, hành vi phạm tội của hắn, ý đồ của hắn… Nhưng tôi lại không đưa ra được bằng chứng chân thực nào, để giúp các vị buộc tội hắn.”
(Bí ẩn cỗ quan tài Hy Lạp - Ellery Queen)
⚝ ⚝ ⚝
Tí tách, tí tách.
Bước ra khỏi thư viện, Hô Diên Vân chợt cảm thấy mặt mình bỗng lạnh giá, ngẩng đầu lên khẽ nhìn bầu trời ướt nhèm nhẹp, mới ngộ ra là mưa rồi. Trận mưa gió bão bùng một tuần trước, đã xua tan sạch sẽ làn khí nóng mùa hè, mấy cơn mưa nhỏ liên miền sau đó đều đã mang hơi lạnh, báo hiệu mùa thu đang gần kề.
Hôm nay cũng thế.
Lúc đến thư viện sáng sớm nay, trời quả thực hơi râm, nhưng anh không mang ô, ngồi ở thư viện hết cả ngày, tra cứu tư liệu, mãi đến lúc nãy, một nhân viên thư viện đội mũ bê-rê nhắc nhở anh sắp đến giờ đóng cửa, anh mới nhận ra đã 4 giờ chiều. Trước khi rời đi, anh trả thẻ mượn sách, nhân viên thư viện đội mũ bê-rê vừa trả số tiền cọc 100 đồng cho anh, vừa hỏi với vẻ hiếu kỳ, “Mấy hôm nay không phải ngày nào anh cũng mượn một đống sách về đọc sao? Sao, tối nay anh không mượn sách nữa à?” Anh khẽ cười bảo, “Ngày mai tôi về Bắc Kinh rồi.” Nhân viên ấy vẫn rất hiếu kỳ, “Anh làm xong việc ở tỉnh lỵ rồi à?” Anh khẽ gật đầu, “Chỉ còn một việc cuối cùng nữa thôi.”
Anh thọc tay vào túi, chầm chậm đi về phía trạm xe buýt, đang giờ cao điểm buổi chiều, trung tâm thành phố xe cộ như nước, bon chen chật ních hệt như Bắc Kinh, cộng thêm trời đang mưa lâm râm, mặt đất lầy lội cả vùng, bóng xe và bóng người giao thoa bập bùng, ồn ã như thể rạp chiếu phim lúc ra về. Một người bán đậu phụ nướng xiên căng tấm ni-lông trong suốt ra, dùng găng tay bẩn thỉu nắm lấy hai cần tay ở hai bên mé tấm vỉ nướng, nhẹ nhàng nhấc lên, xem xét độ già lửa trong lò nướng, chỉ một khoảnh khắc ấy thôi, mà mầm lửa vàng kim ấy đã trở thành màu sắc tươi sáng nhất, bắt mắt nhất trong cảnh phố màu xám.
Chờ chưa được bao lâu ở trạm xe buýt, thì xe đã đến. Hô Diên Vân lên xe, ngồi cạnh cửa sổ, trong khoảnh khắc mà chiếc xe khởi chạy, theo đà một cú lắc nặng nề, dòng suy nghĩ anh bắt đầu phiêu dạt, như những tia mưa rơi trên cửa sổ, rối ren mà cũng rõ rệt.
Từ đêm mưa kinh hoàng tâm can ấy cho đến nay, đã bảy ngày ròng rã, bảy ngày đã xảy ra rất nhiều chuyện, giờ phút này, từng cảnh như phát lại trước mắt anh.
Trước tiên là Tư Miễu. Lưu Tư Miễu tuy đang sốt cao, nhưng trời vừa sáng thì vẫn rút mũi kim truyền dịch ra, chạy đến trường cảnh sát để giảng cho lớp điều tra hiện trường phạm tội đặc sắc thực dụng cho nhóm Trương Hiện Hà, sau đó cô nằm viện thêm hai ngày nữa, sau khi cơ bản khỏi bệnh thì lên tàu về Bắc Kinh. Hô Diên Vân lấy hết can đảm ngỏ lời hộ tống cô về, nhưng bị từ chối một cách lạnh lùng, trước đây, ánh mắt cô nhìn anh đã tràn đầy thù địch, giờ đây không hiểu vì sao còn thêm phần cảnh giác nữa, cứ như đề phòng sói vậy, khi trông thấy cô và Sở Thiên Anh cùng bước lên tàu, trong lòng Hô Diên Vân có nỗi chua cay và phiền muộn khôn tả, trận chiến đấu sát cánh ở hai đầu điện thoại đêm ấy, không ngờ chẳng để lại dấu vết gì.
Sau đó là Lôi Dung. Do tình tiết vụ án phức tạp mà trọng đại, Đường Tiểu Đường không thể không tiếp tục ở lại, phối hợp với cuộc điều tra của phía cảnh sát, Lôi Dung đã chào hỏi với sở tỉnh, đảm bảo chắc chắn việc ăn ở và an toàn của Đường Tiểu Đường, rồi mới rời khỏi tỉnh lỵ, dẫu sao thì ở Bắc Kinh còn bao nhiêu việc đang chờ cô. Ấy vậy mà trước khi đi cô lại mời Hồ Diên Vân đi cùng nhưng Hộ Diên Vân khẽ lắc đầu, “Tôi phải chờ thêm vài ngày…” Lôi Dung hỏi anh chờ bao lâu, anh bảo chờ đến ngày thứ bảy sau khi án mạng xảy ra, Lôi Dung không hiểu vì sao, anh cũng không giải thích.
Di hài của Lưu Tiệp đã được hỏa táng, Lôi Dung đã tham gia lễ truy điệu, còn đặc biệt mặc bộ cảnh phục màu đen đã lâu không mặc, lúc kính lễ trước linh cữu anh, Lôi Dung nhớ lại buổi chiều ngồi trên chiếc Prado đen tiến về Phong Chi Thự hôm ấy, con đường đất thôn quê nhấp nhổm, hàng cây bên đường thấp bé mà thưa thớt, một hàng những kẻ lang thang ngồi dưới chân tường cao ốc thương mại cao cấp, khu nhà lều tàn tạ khôn kham… Màn trời âm u nặng nề ấy giống như một lời tiên tri biết bao: như thể có hàng vạn hàng nghìn cụm mây dày đang ấp ủ thứ gì, lại như thể chẳng có tơ mây nào, chỉ là một tảng cỗ máy ép chất dịch màu xanh đen hoàn chỉnh đang chầm chậm hạ xuống đỉnh đầu, chỉ có điều, không ai ngờ được rằng, Lưu Tiệp lại trở thành người hy sinh đầu tiên trong bộ phim bom tấn tai họa về sau, có biết bao cuộc từ biệt hối hả, đã trở thành âm dương cách xa mãi mãi.
Tuy nhiên, trong cuộc điều tra về sau của cảnh sát, đã lật ngược lại kết luận rằng Lưu Tiệp chết do sự cố ngoài ý muốn. Trong điện thoại của Trần Nhất Tân, cảnh sát phát hiện vào buổi chiều hôm sự việc xảy ra hắn đã gọi hai cuộc gọi cho Cục phó Tần của Cục hành chính nhân dân thành phố, thời gian tử vong của Lưu Tiệp rơi vào đúng ngay giữa hai cuộc gọi. Cảnh sát đã mau chóng tiến hành bắt giữ và thẩm vấn khẩn cấp đối với Cục phó Tần. Cục phó Tần khai báo, do Lưu Tiệp cắn Trần Nhất Tân chặt quá, Trần Nhất Tân vẫn luôn muốn ngụy tạo một “sự cố ngoài ý muốn” để giết Lưu Tiệp, vì vậy lão ta đã nói cho Trần Nhất Tân hay thời gian hoạt động của Lưu Tiệp. Cục phó Tần còn khai, việc Từ Nhiễm may mắn sống sót, cũng là do lão ta nói cho Trần Nhất Tân hay, sau khi nghe thấy Lưu Tiệp sơ ý nói ra địa chỉ nhà an toàn cho Hầu Kế Phong ở xưởng giết mổ, lão ta lập tức bắn tin báo cho Trần Nhất Tân, mới dẫn đến việc Hồ Nhạc sắp xếp mấy tay súng giang hồ truy sát Từ Nhiễm. Có lẽ đây chính là ý nghĩa của câu “Tôi làm được, nhưng họ sẩy tay mất rồi” mà Hồ Nhạc nói với Trần Nhất Tân, còn vì sao Cục phó Tân lại cung cấp tin tình báo cho Trần Nhất Tân, thì cuộc điều tra sau đó đã phát hiện có 68 căn nhà đứng tên cá nhân lão ta, có lẽ đó là lời giải thích hợp lý nhất.
Còn một chuyện đáng để nhắc đến, căn cứ vào mẩu vỏ đạn bắn ra và đặc trưng xẻ rãnh nòng súng biểu thị bởi đầu đạn thu thập được ở hiện trường phạm tội tại tiểu khu Tân Thủy Viên, tiến hành so sánh với các lưu trữ liên quan, đã chứng minh khẩu súng ngắn mà Hồ Nhạc cầm trong lúc truy sát nhóm Đường Tiểu Đường tối hôm nọ, chính là khẩu súng ngắn bị đánh mất mà Triệu Lân Chi vẫn luôn nơm nớp lo sợ.
Đương lúc cảnh sát căn cứ trên lời khai của Cục phó Tần, chuẩn bị tiến hành điều tra toàn diện đối với các hành vi phạm tội của Trần Nhất Tân, thì một kiện chuyển phát nhanh bí ẩn đã được gửi đến bàn làm việc của Sở trưởng Sở công an tỉnh Cát Liên Trụ, mục người gửi trống trơn, cũng không để lại điện thoại liên lạc, nhưng hai bản tài liệu bên trong thì không khác gì bom tấn hạng nặng.
Bản thứ nhất là ghi chép lời thuật của Phùng Lãng lúc đi khám ở bệnh viện tâm thần, có chữ ký của bác sĩ điều trị chính, Phùng Lãng bảo trong lúc xây dựng thư phòng của Phong Chi Thự giúp Triệu Hồng Pha, đã vâng lệnh Trần Nhất Tân động tay vào sàn nhà, lắp đặt thêm một thiết bị bơm thuốc theo giờ lên trên ống cấp nước trong thùng chuyên cấp nước cho căn phòng suite trên tầng ba, truyền dẫn chất ê-te có tác dụng gây mê mỗi ngày từ 10 giờ tối đến 6 giờ sáng hôm sau - thiết bị bơm thuốc này được giấu trong một góc chết của ống cấp nước, phía cảnh sát sau khi mở thùng nước ra tìm kiếm kỹ lưỡng mới phát hiện ra. Không nghi ngờ gì nữa, cái chết của Triệu Hồng Pha và cả đội công nhân vệ sinh hung trạch, đã tạo nên áp lực tinh thần lớn lao cho Phùng Lãng, dù xuất hiện đủ thứ ảo giác đáng sợ, hay đi khám ở bệnh viện tâm thần, thì “gốc rễ căn bệnh” chính là nơi này, dĩ nhiên, đây cũng là nguyên nhân căn bản khiến Trần Nhất Tân sai Hồ Nhạc giết ông ta để thủ tiêu.
Còn bản thứ hai là một tờ giấy, trên đó có một địa chỉ e-mail và mật mã, sau khi mở ra phát hiện trong hộp thư chỉ có một file âm thanh, là bài diễn thuyết của Trần Nhất Tân tại buổi họp kín của ban lãnh đạo của công ty Viên Mãn, Trần Nhất Tân yêu cầu thời gian tới, trưởng chi nhánh và nhân viên môi giới phải tích cực thu mua hung trạch, vì nguồn cung ứng nhà đất khẩn trương, “Trong tương lai đất nền chắc chắn sẽ đáng giá hơn nhà, vì vậy ai nắm giữ được đất nền, thì kẻ đó mới nắm giữ được Trung Quốc!” Giả sử tòa nhà mà hung trạch tọa lạc nằm ở khu đất tương đối tốt, hoặc trong một tiểu khu có hai ba tòa hung trạch, thì đừng ngại “dùng các biện pháp để ngụy tạo ra một số hung trạch”, đồng thời lan truyền tin tức làm cho nó trở thành “hung lầu” hoặc “tiểu khu hung trạch” trong dư luận, khiến các hộ dân khác bằng lòng bán đi với giá rẻ mạt, thực hiện “thu mua toàn diện” toàn bộ tòa nhà, tiểu khu, chiếm hữu đất nền, sau đó bán lại cho nhà nước với giá cao, lời được khoản tiền bồi thường phá bỏ di dời khổng lồ, đồng thời dùng các phương thức như hối lộ để giành quyền khai phá và tái xây dựng, xây dựng nhà ở thương mại cao cấp để bán ra, hai đầu qua lại ăn lời kếch sù gấp bội… “Đối với những tiểu khu nhà ở thương mại có hỗn hợp nhà cho thuê giá rẻ, nhà kinh tế tiện dụng, phải đặc biệt chú ý ngụy tạo hung trạch”, có lẽ hôm diễn thuyết Trần Nhất Tân đã uống quá chén, nói mà chẳng lựa lời, đã lỡ miệng nói ra “tiểu khu Tân Thủy Viên chính là mẫu mực cho việc ngụy tạo hung trạch của chúng ta”, giọng điệu ấy hệt như thế tên cao bồi đồ sát người da đỏ trong những bộ phim miền viễn tây của Mỹ, oai phong lẫm liệt, lẽ thẳng khí hùng.
Hô Diên Vân cho rằng, hai bản tài liệu này chính là “bằng chứng phạm tội” của Trần Nhất Tân mà lúc trước Triệu Hồng Pha đã ủy thác cho thám tử tư điều tra, về sau Đồng Lệ từng ra giá cao, đến tận nhà để mua lại, nhưng viên thám tử ấy đã mất tích một cách bí ẩn.
Nếu Trần Nhất Tân còn sống, dù cung cấp hai bản tài liệu này cho phía cảnh sát đi nữa, e cũng bị hắn vận động đủ mọi kiểu thế lực để “đè” xuống, dẫu sao chúng chỉ là bằng chứng gián tiếp cho thấy Trần Nhất Tân phạm tội, chứ không thể cấu thành sự tấn công trực tiếp đối với hắn được. Nhưng bây giờ thì đã khác, Trần Nhất Tân đã chết, hơn nữa qua lời khai của Cục phó Tần cùng với Triệu Lân Chi, hắn không những là hung thủ thật sự đứng sau vụ giết hại Lưu Tiệp, mà còn là kẻ đã tạo ra nhiều vụ án mạng ở Tân Thủy Viên, đồng thời cực kỳ có khả năng đã chỉ thị Hồ Nhạc giết hại sáu nhân viên dọn vệ sinh ở Phong Chi Thự, vì thế, phía cảnh sát đã mau chóng khám xét nhà của Trần Nhất Tân và công ty Viên Mãn, doanh nghiệp nhà ở qua sử dụng lớn nhất tỉnh lỵ này rầm rầm sụp đổ.
Nghĩ đến đây, Hô Diên Vân hướng ánh mắt ra ngoài cửa sổ xe bị cơn mưa lâm râm đập ướt nhèm nhẹp, xe đã ra khỏi khu đô thị, bánh xe chuyển động nhanh tức tốc như thể đang kéo màn, không ngừng giở trang cảnh sắc hai bên vệ đường mà chẳng hề báo trước: khi thì là gã lang thang không cầm ô đang trù trừ trên con đường nhỏ miền quê, khi thì là con trâu thân chìm giữa ao nước lặng im không lên tiếng, khi thì là một hai tòa công trình đắp chiếu màu xám chì sừng sững trên cánh đồng hoang, khi thì là từng trũng ruộng nước như đang phủ khăn choàng giữa vùng núi hẻo lánh… Dòng suối rí rách, cây cầu nhỏ trải sỏi, những hàng dây điện nên thơ, bùn đất mang sắc đỏ, từng chồng cốt thép gỉ sét và miếng ván tiền chế xám cứng thi thoảng hiện ra giữa phong cảnh như tranh thủy mặc, đại sát phong cảnh. Tiến trình độ thị hóa, sự xâm nhập tiến công đối với vùng quê Trung Quốc, chẳng phải là tình nồng ấm như thể nhuộm bằng sáp, cũng chẳng phải dần dần như phẩy mực, mà giống như đang gặm mì khô giòn hiệu Gấu Tiểu Huân, dùng khoanh hàm dưới thô bạo nhất để gặm nhấm ra sự chênh lệch thô kệch nhất. Trong cuộc vận động rào đất mới kéo dài khoảng hai mươi năm qua, không biết có bao nhiêu Vương Hồng Hà không có nhà để về, càng không biết có bao nhiêu Lý Văn Giải đã trở thành những thanh niên bàng hoàng không nơi nương tựa giữa đường ranh giới thành thị nông thôn, đi về phía trước là đô thị với từng tấc đất giá trên trời, lui về phía sau là cố hương thất thủ từ lâu, điều đáng sợ hơn là, ngay cả đường ranh giới cũng không cho phép họ đứng lại, vì bản thân nó cũng được bữa hôm chưa chắc được bữa mai.
Hai tiếng rít ken két, chiếc xe bỗng dừng lại.
Hô Diên Vân đột nhiên ý thức được rằng, đã đến nơi cần đến rồi, thế là anh nhảy xuống xe, nhìn theo chiếc xe buýt đuôi xả khói xám biến mất vào màn mưa mù mịt.
Hình như người ấy thích uống rượu lắm.
Anh đi về phía trước, tìm một chỗ bán quà vặt, mua một chai rượu trắng hương bông lúa sản xuất nội địa, tháo luôn cả hộp đóng gói, cầm chai rượu đi trở lại trạm xe.
Điện thoại hiển thị 5 giờ chiều, anh khẽ nhìn tứ phía, nhận thấy phía đối diện trạm xe có một mảnh rừng thông, giữa rừng có một con đường nhỏ phủ đá xanh nằm quanh co, bèn đi sang đấy, lần theo con đường nhỏ tiến thẳng về phía trước, sau năm phút đã trông thấy một cánh cổng đá màu trắng đổ nát, hai bên là một dãy hàng rào sắt đã tróc sơn, trên cửa khắc ba chữ lớn đã phai nhòa, nhìn mãi mới nhận ra là “Trường Quy Viên”.
Anh băng qua cánh cổng, giữa một bước mà tựa hồ đã băng vượt qua hai cõi, trong nháy mắt, mọi thứ trở nên trầm lặng, ngay cả tia mưa lất phất rơi cũng chẳng thấy tăm hơi, trước mắt hiện ra những phần mộ dày đặc chi chít, nhất loạt mang hình chữ nhật, mỗi phần mộ đều không lớn hơn bao nhiêu so với một quyển sổ 14 inch trải bằng ra, bia đá không cao, chất liệu đá rất gồ ghề, trên đấy tạc tên của người quá cố hoặc vợ chồng người quá cố, có tấm còn chẳng có lạc khoản. Có lẽ vì là nghĩa địa của người nghèo, thiếu giữ gìn, giữa các phần mộ chỉ chứa khít vừa đủ bước chân, hơn nữa chỗ đặt chân nếu không phải là sình lầy nhão nhoẹt, thì cũng mọc đầy cỏ dại, đều đã khô úa, trông chẳng qua cũng chỉ là một dạng sình lầy khác… Những người bị chôn ở đây, thuở còn sống cũng như lúc chết đều cư ngụ một cách chật hẹp khôn kham.
Hộ Diên Vân nhón mũi chân đi về phía trước, thi thoảng vọng đến tiếng sột soạt của gấu quần quệt lên trên bia mộ, mất rất nhiều sức lực, cuối cùng cũng tìm thấy mộ phần của người ấy ở chốn sâu thẳm của nghĩa địa. Trước mộ không hề có tiền giấy, lư hương hoặc hoa tươi, cho thấy người cúng tế vẫn chưa đến, điều này khiến anh yên tâm hơn. Do tro cốt mới được chôn chưa lâu, cộng thêm việc lớp keo chống nước ở bên viền tấm đá phủ phần mộ trét không đủ dày, khiến cho những giọt mưa vừa rơi xuống tụ lại thành xâu chuỗi nước, thấm vào trong lỗ huyệt. Hô Diên Vân thở dài, rút vài chiếc khăn giấy ra lau chỗ bị thấm nước, nhưng sao mà ngăn cho nổi… Đương lúc anh không biết phải làm sao, đột nhiên nghe thấy tiếng bước chân vọng lại từ nơi xa, có người đã đến, anh vội vã đứng dậy, lánh vào sau một lùm trắc bá cách đó không xa.
Bút ký thời nhà Thanh Lữ Viên tùng thoại có chép, “Bảy ngày tính từ lúc chết, mong một dương của hắn đi về, cúng tế vào kỳ đi về, chính là nghĩa của thuật chiêu hồn của người xưa, dùng tinh thần của người sống, để triệu linh hồn của kẻ chết cho sảng khoái…”
Hôm nay chính là ngày thứ bảy kể từ lúc ông ấy qua đời. hiện Theo quy tắc của vùng này, việc cúng tế tuần đầu là quan trọng nhất, vì vậy, chắc chắn họ sẽ đến.
Giây lát sau, có ba người đến trước phần mộ, hai nam một nữ đều rất trẻ tuổi. Cô gái đặt một bó hoa to trước tấm bia mộ, có một anh chàng tóc sáp bóng lưỡng ôm chồng vàng mã, định thắp cháy bằng hộp quẹt, nhưng trời đang mưa, không cách nào đánh lửa được, một chàng trai khác da mặt trắng trẻo cầm ô giúp người kia, che mưa, lúc đó mới đốt cháy được tiền vàng. Mầm lửa màu vàng kim liếm lên mở vàng mã xanh đỏ lòe loẹt, tro giấy màu xám đen bay rơi xuống đất, phần lớn đều không động đậy gì như bị sình lầy dính chặt, một vài hạt nhỏ lăn cuộn vài vòng, cũng đã ngừng vùng vẫy trong cơn tuyệt vọng.
“Anh già, mở tiền này anh cầm lấy dùng dọc đường, không đủ thì cứ báo mộng cho tôi, tôi đốt cho ông anh bất cứ lúc nào…” Anh chàng đầu tóc sáp bóng lưỡng lẩm bẩm, giọng nói hơi khản đặc, “Hầy, từ nay muốn tìm một người tán gẫu, e cũng không dễ gì nữa…”
Cô gái nọ đột nhiên quỳ sụp xuống đất đánh “tõm” một tiếng, bật khóc òa lên, vừa khóc vừa không ngừng gào “Chú Bì, chú Bì…” “Tiểu Đường, Tiểu Đường, cô mau đứng dậy đi!” Anh chàng da mặt trắng trẻo vận hết sức lực, mới đỡ được cô dậy, “Suốt đời chú Bì luôn vui tươi hớn hở, không mong nhìn thấy cô khóc lóc thế này đâu.” Nói xong anh quệt mạnh qua mặt, không biết đang lau nước mưa hay là nước mắt.
Cô gái vẫn đang khóc lóc, tiếng khóc làm cho bãi tha ma đang sầm tối từng tí một càng mang vẻ thê lương hơn… Hồi lâu sau, cô mới dần biến cơn nức nở thành thổn thức. Ba người cứ thế đứng trước tấm bia mộ của lão Bì, không biết đã bao lâu, cô chợt thở dài thườn thượt, “Chú Bì đã nghèo khổ khốn khó cả đời, cuối cùng vẫn bị chôn ở một nơi chật chội khôn kham thế này… Chẳng lẽ không thể kiếm cho chú ấy một nghĩa địa tốt hơn chút để chôn cất hay sao?”
“Người nghèo thì mạng nghèo, sống hay chết cũng như nhau, tôi thấy cũng được.” Anh chàng có mái đầu sáp bóng lưỡng nói.
“Bằng không đã nhịn nhục cả một đời, đến phút chót đột ngột làm một cú kinh ngạc, thì đấy là một bà Vương Hồng Hà khác rồi.” Cô gái nhớ ra điều gì, “Phải rồi, đã tìm được đất mộ cho Vương Hồng Hà chưa?”
“Bà ta là tội phạm giết người, người nhà lại chẳng có ai, chắc hỏa táng rồi, tro cốt cũng chẳng ai nhận.” Anh chàng có da mặt trắng trẻo nói.
“Thế này đi, tôi bỏ tiền, tìm một miếng đất mộ cho bà ấy, tốt xấu gì thì cũng là thành viên trong đội công nhân vệ sinh hung trạch chúng ta, đâu thể chết mà không có chỗ chôn như thế được.” Cô gái nói.
Hai anh chàng không hẹn mà đồng thanh “ừm” một tiếng.
Cô gái chậm rãi quỳ thụp xuống, hạ giọng nói với tấm bia mộ của lão Bì, “Chú Bì, cháu phải về Bắc Kinh rồi, chú yên tâm nhé, cháu sẽ ổn thôi… Sống cuộc đời tốt, làm việc cho tốt, yêu thương bản thân mình cho tốt, tuyệt sẽ không phụ ơn cứu mạng của chú…” Nói đến đây cô lại òa khóc, khóc được một lúc rồi nói tiếp, “Từ nay về sau, mỗi năm vào ngày giỗ chú, dù cháu có ở xa nghìn dặm đi nữa, cũng sẽ về đây thắp nhang tảo mộ cho chú, tuyệt đối sẽ không để chú cô đơn lẻ loi đâu…”
Những hạt mưa mù mịt bao phủ lấy cô, phất bay lên từng làn khói xanh trên tóc, trên vai cô.
Không biết từ lúc nào, họ đã rời đi.
Sắc chiều đã sẩm tối hơn, bốn bề yên ắng đến mức khiến người ta hoang mang, nhưng ngẩng đầu lên nhìn thì lại thấy mưa dày đặc hơn, dệt nên một tấm lưới lớn màu lục đen, như thể cả thế giới đã bị hơi ẩm nồng nặc ủ đến mức lên mốc vậy. Thế là một vài cơn ảo giác bèn lan dần ra trong ánh khúc xạ của hơi nước: bia mộ hình như đã nghiêng vẹo một tí so với lúc đầu, nắp phủ huyệt mộ đã nứt lộ ra một kẽ hở, tro tàn rơi xuống đất một lần nữa nhúc nhích, mặt đất sình lầy ánh hiện ra một bóng người khổng lồ, tựa hồ hài cốt dưới lòng đất đang trườn sấp nhoài lên phía trước… Còn nữa, ở thời điểm và nơi chốn vốn dĩ không nên có ai lui tới này, bỗng nhiên vắng lại tiếng bước chân nhẹ bâng.
Không, điều này không phải là ảo giác, điều này là thật!
Hộ Diên Vân khẽ lau nước mưa trên lông mi, căng tròn mắt nhìn ra từ giữa các cành cây trắc bá, kẻ ấy như thể hồn ma xuất hiện trước phần mộ lão Bì không một tiếng động, lúc trông thấy tro tàn và hoa tươi thì rất rõ ràng đã giật mình sửng sốt, dè chừng tứ phía hồi lâu, xác nhận chắc chắn không có ai, mới đặt bó hoa tươi trước tấm bia mộ.
Mưa rơi rả rích, tuy bông hoa xinh đẹp, nhưng cánh hoa đã tàn tạ.
Kẻ ấy không khóc lóc, cũng chẳng nói gì, cứ thế đứng yên lặng lẽ, trong màn đêm càng lúc càng đậm đặc, bóng lưng mặc áo khóa gió màu đen tựa hồ đã biến thành một phần của bóng tối.
Cuối cùng, kẻ ấy nhúc nhích, đang dợm cất bước rời đi, đột nhiên một tiếng ho từ sau lưng vẳng đến.
Kẻ ấy rùng mình, quay đầu lại, sửng sốt trông thấy một người với khuôn mặt búng ra sữa đang cầm chai rượu đi ra từ phía sau gốc cây trắc bá.