← Quay lại trang sách

JUNE

Tôi vẫn còn nhớ ngày hôm đó anh trai tôi đã bỏ lỡ buổi lễ kết nạp quân đội Cộng hòa.

Một buổi chiều Chủ nhật. Nóng và ẩm thấp. Những đám mây màu nâu bao phủ bầu trời. Tôi bảy tuổi và Metias đã mười chín. Chú cún chăn cừu màu trắng của tôi, Ollie, đang ngủ trên sàn đá cẩm thạch mát lạnh trong căn hộ của chúng tôi. Tôi nằm sốt phừng phừng trên giường trong khi anh Metias ngồi bên cạnh, lông mày nhíu lại vì lo lắng. Bên ngoài, chúng tôi nghe thấy loa vang lên bài tuyên thệ quốc gia của nước Cộng hòa. Khi họ đọc đến phần nói về tổng thống của chúng tôi, anh Metias đứng dậy chào hướng về phía thủ đô. Cử tri Primo lừng lẫy của chúng tôi vừa đắc cử thêm một nhiệm kỳ tổng thống bốn năm. Đây sẽ là nhiệm kỳ bốn năm lần thứ bảy của ông.

“Anh không cần phải ngồi ở đây với em, anh biết mà,” tôi nói với anh khi bài tuyên thệ kết thúc. “Đến lễ kết nạp đi. Đằng nào em cũng đã ốm rồi.”

Anh Metias lờ đi và thay một chiếc khăn mát khác lên đầu tôi. “Đằng nào thì anh cũng được kết nạp thôi,” anh nói. Anh cho tôi ăn một miếng cam tím. Tôi nhớ đã quan sát anh bóc cam cho mình; anh cắt một đường cắt dài, liền mạch trên vỏ cam rồi tách nguyên xi lớp vỏ ra.

“Nhưng đó là Chỉ huy Jameson.” Tôi chớp chớp đôi mắt sưng mọng. “Bà ấy đã chiếu cố phân công anh không phải ra tiền tuyến... Bà ấy sẽ không hài lòng nếu anh bỏ lễ kết nạp đâu. Bà ấy không ghi chuyện đó vào hồ sơ của anh chứ? Anh không muốn bị tống cổ như một gã lưu manh đường phố đâu.”

Anh Metias gõ vào mũi tôi vẻ không bằng lòng. “Đừng gọi người ta như thế, June-bọ. Như thế là hỗn đấy. Và bà ấy cũng không thể đuổi anh khỏi đội chỉ vì bỏ buổi lễ đâu. Hơn nữa,” anh vừa nói vừa nháy mắt, “anh luôn có thể đột nhập vào cơ sở dữ liệu của họ và xóa sạch hồ sơ mà.”

Tôi cười. Một ngày nào đó, tôi cũng muốn được kết nạp vào quân đội, để khoác lên mình chiếc áo choàng đen của lính Cộng hòa. Thậm chí nếu may mắn tôi sẽ được phân công phục vụ dưới quyền một chỉ huy nổi tiếng như anh Metias đã được chọn. Tôi mở miệng để anh đút cho tôi một miếng cam. “Anh nên trốn đi Batalla thường xuyên hơn. Có thể anh sẽ có thời gian để tìm bạn gái đấy.”

Anh Metias cười. “Anh không cần bạn gái. Anh có một cô em gái để chăm sóc rồi.”

“Thôi nào. Rồi một ngày nào đó anh sẽ có bạn gái thôi mà.”

“Rồi xem. Anh kén cá chọn cạnh lắm đấy.”

Tôi dừng lại để nhìn thẳng vào mắt anh. “Anh Metias, mẹ có chăm em khi em ốm không? Mẹ có làm những việc thế này không ạ?”

Anh Metias với tay gạt những sợi tóc ướt đẫm mồ hôi ra khỏi khuôn mặt tôi. “Đừng có ngốc, June-bọ. Tất nhiên mẹ đã chăm sóc em. Và mẹ chăm sóc em tốt hơn anh nhiều.”

“Không. Anh chăm sóc em là tốt nhất rồi,” tôi thì thầm. Mí mắt của tôi nặng dần.

Anh trai tôi mỉm cười. “Anh rất vui vì em nói vậy.”

“Anh sẽ không bỏ rơi em như thế chứ? Anh sẽ ở lại bên em lâu hơn bố mẹ chứ?”

Anh Metias hôn lên trán tôi. “Mãi mãi như vậy nhóc à, đến khi em phát ốm lên vì phải gặp anh thì thôi.”

00:01.

KHU RUBY.

NHIỆT ĐỘ PHÒNG 22 ĐỘ C.

Tôi biết có chuyện không ổn ngay khi Thomas xuất hiện trước cửa nhà tôi. Điện ở tất cả các chung cư đều bị cắt, như anh Metias đã báo trước, và chỉ có ánh đèn dầu thắp sáng căn hộ. Ollie sủa điên cuồng. Tôi đang mặc đồng phục tập luyện và áo gi lê đỏ đen với đôi bốt buộc dây và mái tóc thắt đuôi ngựa thật chặt. Trong thoáng chốc, tôi thật lòng mừng vì anh Metias không phải người đứng chờ ngoài cửa. Anh sẽ thấy đồ tôi mặc và biết là tôi sắp một mình chạy ra đường. Không nghe lời anh một lần nữa.

Khi tôi mở cửa, Thomas hắng giọng đầy vẻ lo lắng trước vẻ mặt bất ngờ của tôi và giả vờ mỉm cười. (Có một vệt dầu đen trên trán anh, có lẽ là từ ngón trỏ của anh mà ra. Vậy là tối nay anh vừa đánh bóng súng trường và nhóm của anh sẽ đi tuần vào ngày mai.) Tôi khoanh tay. Anh lịch sự chạm nhẹ vành mũ.

“Xin chào cô Iparis,” anh nói.

Tôi hít một hơi sâu. “Em ra đường đây. Anh Metias đâu rồi ạ?”

“Chỉ huy Jameson yêu cầu cô đi với tôi đến bệnh 46 viện càng sớm càng tốt.” Thomas ngập ngừng một thoáng. “Đây giống một mệnh lệnh hơn là một lời yêu cầu.”

Tôi bỗng cảm thấy nôn nao trong dạ. “Tại sao bà ấy không gọi cho em?” Tôi hỏi.

“Bà ấy muốn tôi đưa cô đến đó hơn.”

“Tại sao?” Giọng tôi bắt đầu lên cao. “Anh trai em đâu?”

Giờ đến lượt Thomas hít một hơi sâu. Tôi đã biết trước điều anh định nói. “Tôi rất tiếc. Metias đã bị giết.”

Đó là lúc trời đất quanh tôi như im bặt.

Như là từ rất xa, tôi có thể thấy Thomas vẫn đang nói gì đó, khua chân múa tay, kéo tôi lại để ôm. Tôi ôm lại anh mà không biết mình đang làm gì. Tôi không cảm thấy gì hết. Tôi gật đầu khi anh đỡ tôi và đề nghị tôi làm gì đó. Đi theo anh. Anh quàng một tay qua vai tôi. Một chú cún cọ cái mũi ướt vào tay tôi. Ollie chạy theo tôi ra khỏi nhà, và tôi bảo nó đi bên cạnh mình. Tôi khóa cửa, bỏ chìa vào túi rồi để Thomas dẫn cả hai qua bóng tối về phía cầu thang. Anh nói liên tục, nhưng tôi không nghe được gì. Tôi nhìn chăm chăm vào họa tiết trang trí lấp loáng bằng kim loại viền dọc theo cầu thang, vào những hình ảnh phản chiếu méo mó của tôi và Ollie.

Tôi không biết mình đang biểu cảm thế nào. Thậm chí tôi không chắc mình có đang biểu cảm gì không nữa.

Đáng lẽ anh Metias phải cho tôi đi cùng. Đây là ý nghĩ mạch lạc đầu tiên của tôi khi xuống tầng dưới cùng của tòa nhà và ngồi vào một chiếc jeep đang chờ sẵn. Ollie nhảy lên ghế sau và thò đầu ra cửa sổ. Mắt chú mở to. Chiếc xe bốc mùi ẩm thấp (như mùi cao su, kim loại và mồ hôi mới, chắc hẳn một nhóm người vừa ngồi đây). Thomas ngồi vào ghế lái và kiểm tra xem tôi đã cài dây an toàn chưa. Thật là một hành động tủn mủn ngu ngốc.

Đáng lẽ anh Metias phải cho tôi đi cùng.

Tôi nghĩ đi nghĩ lại điều này trong đầu. Thomas không nói gì với tôi nữa. Anh để tôi nhìn đăm đắm ra ngoài thành phố đang dần tối đen lại lúc chúng tôi đi, thỉnh thoảng liếc nhìn tôi do dự. Một phần nhỏ trong tôi ghi nhớ sẽ xin lỗi anh sau.

Tôi đờ đẫn nhìn những tòa nhà quen thuộc khi chúng tôi đi ngang qua. Người (chủ yếu là công nhân từ khu ổ chuột) đứng kín các gian hàng ở tầng một dù đã mất điện, chúi đầu vào những bát thức ăn rẻ tiền trong các quán ăn tầng trệt. Từng đám hơi nước lơ lửng ở đằng xa. Màn hình khổng lồ, luôn bật, bất chấp tình trạng thiếu năng lượng, đang chiếu những cảnh báo mới nhất về lũ lụt và kiểm dịch. Một số là về quân Ái quốc, lần này là một vụ đánh bom khác đã giết chết nửa chục lính ở Sacramento. Một vài thiếu sinh quân, mười một tuổi với những sọc vàng trên tay áo, nấn ná ngoài thềm một học viện, hàng chữ Nhà hát Walt Disney cũ kỹ đã hầu như hoàn toàn biến mất. Vài xe jeep quân sự khác cắt ngang chỗ chúng tôi, và tôi thấy những khuôn mặt trống rỗng của đám lính trên xe. Một số đeo những cặp kính bảo hộ màu đen nên tôi không nhìn thấy mắt họ chút nào.

Bầu trời nhiều mây hơn thường lệ, báo hiệu một cơn dông. Tôi kéo mũ lên che đầu, phòng khi mình có thể quên mất lúc xuống xe.

Khi hướng sự chú ý trở lại cửa sổ, tôi thấy phần trung tâm thành phố nằm trong khu Batalla. Đèn trong khu quân đội thảy đều bật sáng. Tòa tháp bệnh viện sừng sững chỉ còn cách mấy dãy nhà.

Thomas thấy tôi vươn cổ lên để nhìn rõ hơn. “Sắp đến nơi rồi,” anh nói.

Khi chúng tôi đến gần, tôi có thể thấy những dải băng vàng đan chéo quanh chân tháp, nhiều nhóm lính tuần thành (tay áo có sọc đỏ giống anh Metias), cũng như mấy người chụp ảnh và cảnh sát đường phố, xe thùng đen và xe cứu thương quân sự. Ollie bật ra tiếng rên.

“Em đoán họ chưa bắt được gã đó,” tôi nói với Thomas.

“Sao em biết?”

Tôi hất đầu về phía tòa nhà. “Tay đó giỏi thật,” tôi tiếp tục. “Sống sót khi nhảy qua hai tầng rưỡi xuống đất và vẫn còn sức chạy trốn.”

Thomas nhìn tòa nhà và cố thấy điều tôi thấy, cửa sổ cầu thang tầng ba bị vỡ, khu vực chăng các dải băng vàng ngay dưới đó, binh lính sục sạo các ngõ nhỏ, không thấy xe cấp cứu dân sự. “Ta chưa bắt được hắn,” anh thừa nhận sau một lúc. Vết dầu lau súng trên trán làm anh trông lúng túng. “Nhưng không có nghĩa ta sẽ không tìm thấy xác hắn.”

“Anh sẽ không tìm thấy nó nếu giờ này anh vẫn còn chưa tìm ra nó.”

Thomas mở miệng định nói gì đó, song lại thôi, rồi quay lại tập trung lái xe. Khi chiếc xe jeep dừng hẳn, Chỉ huy Jameson rời nhóm lính gác đi về hướng cửa xe phía tôi.

“Anh rất tiếc,” Thomas đột ngột nói với tôi. Tôi thấy nhói lên cảm giác tội lỗi vì thái độ lạnh lùng của mình và quyết định gật đầu đáp lại anh. Cha anh từng là bảo vệ của khu chung cư cao tầng của chúng tôi trước khi ông mất, còn người mẹ quá cố của anh là đầu bếp ở trường tiểu học của tôi. Anh Metias chính là người đã tiến cử Thomas (người có điểm số cao trong kỳ Sát hạch) vào những đơn vị tuần thành có tiếng, mặc dù xuất thân của anh khá khiêm tốn. Thế nên anh chắc phải cảm thấy chết lặng không khác gì tôi.

Chỉ huy Jameson đã đứng cạnh cửa xe và gõ hai lần vào cửa sổ để gọi tôi. Đôi môi mỏng tô sắc đỏ giận dữ, và trong bóng tối mái tóc màu nâu đỏ của bà sẫm lại, gần chuyển màu đen.

“Nhanh lên, Iparis. Chúng ta không có nhiều thời gian đâu,” bà liếc nhìn Ollie ở ghế sau. “Đó không phải một con chó cảnh sát, cô bé.” Cách hành xử của bà không mảy may suy suyển ngay cả trong tình cảnh này.

Tôi xuống xe và chào bà theo kiểu nhà binh. Ollie nhảy xuống cạnh tôi. “Bà gọi tôi, thưa Chỉ huy,” tôi nói.

Chỉ huy Jameson không thèm chào lại. Bà quay đi và tôi bắt buộc phải chạy theo bên cạnh, vất vả hòa nhịp bước cùng bà. “Anh trai cô, Metias, đã chết,” bà nói. Giọng bà không thay đổi. “Theo tôi biết thì cô sắp hoàn thành khóa huấn luyện đặc vụ, đúng vậy không? Cô cũng đã hoàn thành các khóa học về lần theo dấu vết?”

Tôi cố thở bình thường. Người thứ hai xác nhận cái chết của Metias. “Vâng, thưa Chỉ huy,” tôi nói.

Chúng tôi đi vào bệnh viện. (Phòng chờ trống trơn; tất cả bệnh nhân đã được chuyển đi; nhiều nhóm lính canh đứng gần lối lên cầu thang; đó có thể là hiện trường đầu tiên của vụ án.) Chỉ huy Jameson nhìn thẳng về phía trước, tay chắp sau lưng. “Cô được bao nhiêu điểm trong kỳ Sát hạch?”

“Một ngàn năm trăm, thưa Chỉ huy.” Tất cả mọi người trong quân đội đều biết điểm của tôi. Nhưng Chỉ huy Jameson thích giả vờ không biết hoặc không quan tâm.

Bà không hề dừng bước. “À, đúng rồi,” bà nói, như thể đây là lần đầu bà nghe thấy điều đó. “Có thể cô cũng được việc đấy. Tôi đã gọi cho Drake và bảo họ cô được cho nghỉ học. Dẫu sao thì cô cũng gần hoàn thành chương trình học rồi.”

Tôi nhăn mặt. “Chỉ huy?”

“Tôi nhận được bảng tổng kết quá trình học của cô. Tất cả đều là điểm tuyệt đối, cô đã hoàn thành hầu hết các môn chỉ với nửa thời gian yêu cầu, phải không? Họ cũng nói cô thích gây rắc rối. Có đúng không?”

Tôi không hiểu bà ấy muốn gì ở mình. “Thỉnh thoảng, thưa Chỉ huy. Tôi gặp rắc rối gì? Họ đuổi học tôi ạ?”

Chỉ huy Jameson mỉm cười. “Không phải. Họ cho cô tốt nghiệp sớm. Đi theo tôi, tôi muốn cho cô thấy một thứ.”

Tôi muốn hỏi về anh Metias, về chuyện xảy ra ở đây. Nhưng thái độ lạnh lùng của bà ngăn cản tôi làm việc đó.

Chúng tôi đi xuôi một dãy hành lang tầng một đến cửa thoát hiểm cuối hành lang. Ở đó, Chỉ huy Jameson khoát tay ra hiệu lính gác cho tôi qua. Tiếng gầm gừ phát ra từ cổ họng Ollie. Chúng tôi ra ngoài trời, lần này là sân sau tòa nhà. Tôi nhận ra chúng tôi đang ở trong khu vực chăng băng vàng. Vài chục lính đứng quanh chúng tôi.

“Nhanh lên,” Chỉ huy Jameson quát tôi. Tôi đi nhanh hơn.

Một lúc sau tôi nhận ra cái bà ấy muốn tôi thấy, và nơi chúng tôi đang đi tới. Không xa phía trước chúng tôi là một vật phủ vải trắng. (Dài lm83, giống người; tứ chi trông nguyên vẹn dưới tấm vải phủ; chắc chắn không phải tự nhiên rơi như vậy, chắc ai đó đã đặt anh nằm ở đấy.) Tôi bắt đầu run rẩy. Khi tôi nhìn xuống Ollie, lông nó dựng đứng. Nó không muốn đến gần hơn. Tôi gọi nó vài lần, nhưng nó nhất quyết không đi, nén tôi phải đi theo Chỉ huy Jameson và để nó lại.

Anh Metias hôn lên trán tôi. “Mãi mãi như vậy nhóc à, đến khi em phát ốm lên vì phải gặp anh thì thôi.”

Chỉ huy Jameson dừng trước tấm vải trắng rồi cúi xuống lật nó sang một bên. Tôi nhìn chằm chằm vào xác chết một người lính mặc quân phục đen, một con dao vẫn đang cắm vào ngực. Vệt máu đen loang lổ trên áo, vai, tay người lính và trên những đường rãnh nơi cán dao. Mắt anh nhắm nghiền. Tôi quỳ xuống bên cạnh và gạt mấy sợi tóc đen khỏi khuôn mặt anh. Kỳ lạ. Không có chi tiết nào lọt vào đầu tôi. Tôi không cảm thấy gì, ngoài sự tê tái sâu thẳm.

“Cho tôi biết chuyện gì có thể đã xảy ra ở đây, học viên,” Chỉ huy Jameson nói to. “Coi như đây là bài kiểm tra đột xuất. Danh tính người lính này sẽ tạo thêm động lực để cô trả lời đúng.”

Tôi thậm chí chẳng mảy may suy suyển trước sự chua chát trong giọng nói của bà. Các manh mối ùa về, tôi bắt đầu nói ngay. “Người tấn công anh ấy bằng con dao này hoặc đâm ở cự ly gần hoặc ném dao rất khỏe. Thuận tay phải.” Tôi rà ngón tay trên cán dao máu đã đóng cục lại. “Ngắm rất chuẩn. Tôi đoán con dao cùng đi với một con dao khác thành một cặp. Bà thấy phần trang trí cuối lưỡi dao không? Nó không đầy đủ.”

Chỉ huy Jameson gật đầu. “Con dao thứ hai cắm trên tường cầu thang.”

Tôi nhìn về con ngõ tối mà chân anh tôi đang chỉ hướng đó và thấy cái nắp cống cách chỗ tôi vài mét. “Đó là nơi hắn chạy thoát,” tôi nói. Tôi ước lượng hướng nắp cống được đậy xuống. “Hắn thuận cả tay trái. Thú vị thật. Hắn thuận cả hai tay.”

“Tiếp tục đi.”

“Từ đây, hệ thống cống sẽ đưa hắn vào sâu hơn trong thành phố hoặc theo hướng Tây ra biển. Hắn sẽ chọn thành phố, hắn có thể bị thương nặng nên không còn đường nào khác. Giờ việc theo dấu vết hắn một cách chính xác là bất khả thi. Nếu khôn ngoan, hắn sẽ liên tục đổi hướng và làm thế trong nước cống. Hắn không dại gì sờ vào tường. Chúng ta sẽ không có dấu vết để lần theo.”

“Tôi sẽ để cô ở đây một lúc, cho cô bình tâm lại. Hai phút nữa gặp tôi trên cầu thang tầng ba, để mấy tay chụp ảnh xong việc đã.” Bà liếc nhìn xác anh Metias trước khi quay đi, trong một thoáng ngắn ngủi, vẻ mặt bà dịu lại. “Thật là phí phạm một người lính tốt.” Rồi bà lắc đầu và bỏ đi.

Tôi nhìn theo bước chân bà. Mấy người xung quanh tôi cố tránh xa ra, có vẻ như họ thiết tha muốn tránh một cuộc đối thoại gây khó xử. Tôi lại nhìn xuống mặt anh trai mình. Thật ngạc nhiên làm sao, trông anh có vẻ thanh thản. Làn da anh rám nắng, không trắng toát như những gì tôi mặc định về làn da người chết. Tôi gần như chờ đợi mắt anh chớp chớp, miệng anh mỉm cười. Một ít máu khô dính vào tay tôi. Tôi cố phủi nó đi, nhưng càng phủi nó càng dính chặt vào da. Tôi không biết có phải chính điều này làm tôi điên lên không. Hai tay tôi bắt đầu run lên bần bật, đến mức tôi phải nắm chặt áo anh Metias cho đỡ run. Đáng lẽ giờ tôi phải phân tích hiện trường vụ án... nhưng tôi không thể tập trung được.

“Đáng lẽ anh phải đưa em đi cùng,” tôi thì thầm với anh. Rồi tôi dựa vào đầu anh và bắt đầu khóc. Trong đầu tôi hứa thầm với kẻ giết anh mình.

Tao sẽ tìm ra mày. Tao sẽ lùng sục tìm mày khắp hang cùng ngõ hẻm ở Los Angeles. Tìm khắp cả nước Cộng hòa này nếu cần. Tao sẽ đánh bẫy mày, sẽ lừa bịp, dối trá và trộm cướp để tìm ra mày, dụ mày ra khỏi hang ổ, đuổi theo đến khi mày không còn chỗ nào để trốn. Tao thề có trời đất chứng giám: mạng sống của mày thuộc về tao.

Rất nhanh sau đó, vài người lính đến đưa thi thể anh Metias đến nhà xác.

03:17.

CĂN HỘ CỦA TÔI.

CÙNG ĐÊM ĐÓ.

MƯA BẮT ĐẦU RƠI.

Tôi nằm trên đi văng ôm Ollie trong vòng tay. Chỗ anh Metias thường ngồi giờ trống không. Chồng album ảnh cũ và nhật ký của anh chất đống trên bàn nước. Anh luôn yêu cái lối nệ cổ của cha mẹ chúng tôi, giữ những cuốn nhật ký viết tay giống như cái cách họ lưu giữ tất cả những tấm ảnh giấy. “Em không thể lần tìm hoặc theo dấu chúng trên mạng,” anh luôn nói vậy. Thật mỉa mai khi điều đó được nói ra bởi một tin tặc bậc thầy.

Có thật là mới chiều nay anh còn đón tôi về từ Drake? Anh đã muốn nói với tôi chuyện gì đó quan trọng, ngay trước khi đi. Giờ thì tôi sẽ không bao giờ biết được anh muốn nói gì. Các giấy tờ và báo cáo vương vãi trên bụng tôi. Một tay tôi nắm chặt mặt dây chuyền, vật chứng tôi xem xét được một lúc rồi. Tôi nheo mắt nhìn bề mặt nhẵn nhụi không chi tiết của nó. Rồi tôi thả tay xuống thở dài. Đầu tôi đau quá.

Trước đó tôi nghe ngóng được lý do Chỉ huy Jameson lôi tôi ra khỏi Drake. Bà đã theo dõi tôi từ lâu. Giờ đây khi đội của anh Metias đột ngột mất một người, bà muốn thêm vào đó một trinh sát. Thời điểm hoàn hảo để tóm cổ tôi trước khi những người tuyển dụng khác kịp ra tay. Bắt đầu từ mai, Thomas sẽ tạm thời thay thế vị trí anh Metias, và tôi sẽ tham gia vào đội trong vai trò trinh sát điều tra tập sự.

Nhiệm vụ lần dấu đầu tiên của tôi: Day.

“Chúng ta đã thử nhiều chiến thuật khác nhau để bắt Day, nhưng không có cái nào thành công,” Jameson nói trước khi cho tôi về nhà. “Vậy nên giờ ta sẽ làm thế này. Tôi sẽ tiếp tục các dự án của đội tuần tra. Với cô, tôi muốn kiểm tra các kỹ năng thực địa của cô. Hãy cho tôi thấy kế hoạch lần theo Day. Có thể cô sẽ làm được gì đó. Cũng có thể không. Nhưng cô có cái nhìn mới mẻ và nếu cô gây ấn tượng với tôi, tôi sẽ thăng chức cho cô làm trinh sát chính thức trong đơn vị này. Tôi sẽ làm cô nổi tiếng, trinh sát trẻ tuổi nhất trong lịch sử.”

Tôi nhắm mắt cố suy nghĩ.

Day đã giết anh tôi. Tôi biết thế vì chúng tôi tìm được thẻ căn cước bị đánh cắp trên cầu thang tầng ba. Thẻ này dẫn tới người lính có ảnh trên đó, anh ta lắp bắp đưa ra một bản mô tả nhận dạng của hắn. Mô tả của anh ta không khớp với bất kỳ mô tả nào mà chúng tôi có trong hồ sơ về Day, nhưng sự thật là chúng tôi cũng biết rất ít về bề ngoài của hắn, trừ việc hắn còn trẻ, giống với thằng bé ở bệnh viện tối nay. Các dấu vân tay trên thẻ căn cước khớp với những vân tay tìm được tháng trước từ một hiện trường vụ án có liên quan đến Day, những dấu vân tay không khớp với bất kỳ người dân thường nào mà chính quyền Cộng hòa còn lưu hồ sơ.

Day đã ở đó, trong bệnh viện. Hắn bất cẩn đánh rơi thẻ căn cước lại hiện trường.

Chi tiết này làm tôi thấy lạ. Day đột nhập vào phòng thí nghiệm tìm thuốc với một kế hoạch liều mạng giờ chót đầy sơ hở. Chắc hẳn hắn lấy đi thuốc kiềm chế bệnh dịch và thuốc giảm đau vì hắn không tìm được thuốc mạnh hon. Với cách hắn thoát thân, chắc chắn bản thân hắn không mắc dịch bệnh. Như vậy ai đó quen biết hắn đã bị bệnh, ai đó hắn quan tâm đến độ có thể liều cả mạng sống mang thuốc về. Người đó sống ở Blueridge, Lake, Winter, hoặc Alta, các khu mới bùng phát dịch gần đây. Nếu tôi suy luận đúng, Day sẽ không trốn ngay khỏi thành phố. Hắn phải ở lại đây vì mối liên hệ này, vì bị thúc đẩy bởi cảm xúc.

Cũng có thể Day được thuê để làm việc này. Nhưng bệnh viện là nơi nguy hiểm và người đó sẽ phải trả hắn rất nhiều tiền. Nếu có nhiều tiền như vậy, chắc chắn hắn sẽ lên kế hoạch kỹ càng hơn và biết được thời điểm chuyến hàng chở thuốc chữa dịch tiếp theo được chuyển đến. Bên cạnh đó, trong các lần phạm tội trước đây, Day chưa bao giờ là lính đánh thuê. Hắn đơn độc tấn công vào các tài sản của quân đội Cộng hòa, làm chậm tiến độ tiếp tế ra chiến trường và phá hủy khinh khí cầu, máy bay chiến đấu. Hắn dường như có kế hoạch ngăn chúng tôi giành chiến thắng trước quân Thuộc địa. Có lúc chúng tôi đã nghĩ hắn làm cho quân Thuộc địa, nhưng những phi vụ của hắn khá thô, không có những thiết bị công nghệ cao hoặc khoản tài trợ đáng kể nào chống lưng. Không phải thứ mà người ta chờ đợi từ kẻ thù của chúng tôi. Hắn chưa từng được thuê để thực hiện các phi vụ theo như tôi biết, và cũng không có vẻ gì là hắn sẽ bắt đầu làm thế lúc này. Ai sẽ thuê một tay lính chưa được thử thách bao giờ? Một khả năng nữa là quân Ái quốc, nhưng nếu Day từng làm việc cho bọn chúng thì đến giờ, kẻ nào của phe Ái quốc sẽ phải vẽ lá cờ hiệu của bọn chúng (mười ba vạch trắng đỏ, với năm mươi chấm trắng trên nền chữ nhật màu xanh lam) lên một bức tường nào đó ở gần hiện trường vụ án rồi. Chúng sẽ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội tuyên bố chiến thắng đâu.

Nhưng điều khó hiểu nhất mà tôi chưa thông là: Day chưa giết ai bao giờ. Đó là một lý do khác mà tôi không tin hắn có liên hệ với quân Ái quốc. Trong một vụ trước đây, trên đường đột nhập vào một khu cách ly hắn trói một viên tuần cảnh. Người cảnh sát này không bị một vết xước nào (trừ một bên mắt thâm đen). Một lần khác, hắn đột nhập vào một két sắt ngân hàng và bốn tay bảo vệ ở cửa sau không bị sao hết, dù hơi choáng váng. Có lần hắn đốt một loạt chiến đấu cơ đang đậu trên đường băng không người giữa đêm hôm khuya khoắt và hai lần khác cho khinh khí cầu “tiếp đất” bằng cách phá hỏng động cơ. Hắn từng phá hoại bên sườn một tòa nhà quân sự. Hắn ăn trộm tiền, đồ ăn, hàng hóa. Nhưng không bao giờ đặt bom ven đường, không bắn binh lính. Hắn không cố gắng ám sát ai bao giờ. Tóm lại Day không giết người.

Vậy tại sao giết anh Metias? Day có thể chạy thoát mà không cần giết anh ấy. Có thù oán gì giữa hai người chăng? Anh tôi đã làm gì hắn trước đây sao? Đó chắc chắn không phải một tai nạn, con dao găm thẳng vào tim anh Metias.

Xuyên qua trái tim thông minh, ngu xuẩn, cứng đầu, bảo vệ em gái quá mức của anh.

Tôi mở mắt, giơ mặt dây chuyền lên xem xét tiếp. Nó là của Day, vân tay cho biết điều đó. Nó là một cái đĩa hình tròn và không có gì khắc trên đó, được tìm thấy trên cầu thang bệnh viện cùng với thẻ căn cước bị đánh cắp. Nó không thuộc về tôn giáo nào tôi biết. Nó không phải vật có giá trị, làm bằng đồng mạ ni ken rẻ tiền, phần vòng cổ làm bằng nhựa. Vậy có thể nói hắn không ăn cắp nó, và nó có ý nghĩa khác với hắn, đến mức hắn mang theo bên mình dù nó có thể bị rơi hoặc mất. Có thể là bùa may mắn. Có thể người thân nào đó đã cho hắn cái này. Có thể cũng chính người đó là lý do hắn liều mạng đánh cắp thuốc. Vật này chứa một bí mật; tôi chỉ chưa biết nó là gì thôi.

Những kỳ công của Day từng cuốn hút tôi. Nhưng giờ hắn là kẻ thù xứng tầm, là mục tiêu của tôi. Nhiệm vụ đầu tiên của tôi.

Tôi suy nghĩ trong hai ngày liền. Ngày thứ ba, tôi gọi Chỉ huy Jameson. Tôi có một kế hoạch.