← Quay lại trang sách

JUNE

Tôi tỉnh dậy lúc bình minh. Ánh sáng làm tôi nheo mắt lại (ánh sáng đâu ra thế nhỉ, từ đằng sau tôi sao?), và trong một thoáng tôi bị mất phương hướng, không chắc lý do tại sao mình lại đang ngủ trong một tòa nhà bỏ hoang hướng ra đại dương với đám hoa cúc biển mọc dưới chân. Một cơn đau nhói ở bụng làm tôi thở hắt ra. Mình dã bị đâm, tôi hoảng hốt nhận ra. Và rồi tôi nhớ ra trận Skiz, con dao và anh chàng đã cứu tôi.

Tess chạy đến bên cạnh khi nhìn thấy tôi cựa quậy. “Chị thấy thế nào rồi?”

Cô bé trông vẫn cảnh giác với tôi. “Vẫn đau,” tôi lầm bầm. Tôi không muốn cô bé nghĩ rằng em đã băng vết thương cho tôi quá ẩu, nên tôi nói thêm, “Nhưng vẫn tốt hơn nhiều so với hôm qua rồi.”

Tôi phải mất một phút để nhận ra rằng anh chàng đã cứu mình đang ngồi ở góc phòng, đung đưa chân trên ban công và nhìn về phía mặt hồ. Tôi phải giấu đi sự bối rối của mình. Vào một ngày bình thường, không có vết dao đâm, tôi sẽ không bao giờ để một chi tiết như thế lọt ra khỏi tầm mắt. Cậu ta đã đi đâu đó đêm qua. Khi chập chờn trong giấc ngủ, tôi đã lưu lại trong trí nhớ hướng đi của cậu ta (phía Nam, về hướng ga Union).

“Tôi hy vọng cô không ngại đợi vài tiếng trước khi ăn,” cậu ta nói với tôi. Cậu ta đội chiếc mũ của trẻ bán báo đã cũ sờn, nhưng bên dưới tôi có thể thấy một vài sợi tóc màu bạch kim. “Chúng tôi đã thua cược Skiz nên giờ không còn tiền để mà mua đồ ăn.”

Cậu ta đang đổ lỗi cho mình vì làm cậu ta thua. Tôi chỉ gật đầu. Tôi nhớ lại âm thanh giọng nói đứt đoạn của Day phát từ dàn loa và lặng lẽ so sánh nó với giọng của anh chàng này. Cậu ta nhìn tôi một lúc nhưng không cười, như thể cậu ta biết tôi đang làm gì, sau đó quay lại phiên gác của mình. Không, tôi không thể chắc chắn tiếng nói đó là của cậu ta. Hàng ngàn người ở Lake có giọng khớp với giọng nói đó.

Tôi nhận ra rằng chiếc loa cài trong má tôi vẫn tắt. Thomas chắc phải giận tôi lắm. “Tess,” tôi nói. “Chị xuống hồ đây. Lát sẽ quay lại.”

“Chị chắc chị đi được một mình chứ?” cô bé hỏi.

“Chị sẽ ổn thôi.” Tôi mỉm cười. “Nhưng mà nếu em thấy chị trôi bất tỉnh ra phía biển thì phải lao ra kéo chị vào bằng mọi cách nhé.”

Những bậc thềm của tòa nhà này chắc chắn từng là một phần của cầu thang, nhưng bây giờ chúng nằm lộ thiên phía bên ngoài tòa nhà. Tôi đứng dậy lê từng bước một xuống các bậc thang, cẩn thận để không trượt chân roi xuống nước. Dù Tess đã làm gì đêm qua thì dường như nó cũng đang phát huy tác dụng. Mặc dù bên hông tôi vẫn nóng rát nhưng cơn đau đã đỡ hơn và tôi có thể bước đi dễ dàng hơn ngày hôm qua. Tôi đi xuống dưới nhà nhanh hơn mình tưởng. Tess làm tôi nhớ đến anh Metias, cái cách anh chăm sóc cho tôi khỏe lại trong ngày lễ kết nạp của anh.

Nhưng tôi không thể chịu nổi những ký ức về anh Metias vào lúc này. Tôi hắng giọng và tập trung đi tiếp về phía mép nước.

Mặt trời mọc đằng Đông giờ đã lên đủ cao để tắm toàn bộ hồ nước trong một màu vàng đục, và tôi có thể nhìn thấy dải đất nhỏ ngăn giữa hồ nước với Thái Bình Dương. Tôi đi xuống tầng sát ngay mép nước của tòa nhà. Mọi bức tường ở tầng này đều đã bị sập, nên tôi có thể đi thẳng ra rìa tòa nhà và thả chân mình xuống nước. Khi nhìn sâu xuống nước, tôi có thể thấy tòa nhà thư viện cũ này còn chạy xuống thêm nhiều tầng nữa. (Có lẽ phải đến mười lăm tầng, phán đoán dựa trên địa thế của các tòa nhà bên bờ hồ và độ dốc của mặt đất từ phía bờ hồ. Phải có xấp xỉ sáu tầng nhà chìm trong nước.)

Tess và anh chàng kia ngồi ở nóc tòa nhà, cách tôi vài tầng, hoàn toàn ngoài tầm nghe. Tôi nhìn lại phía chân trời, đá lưỡi và bật microphone lên.

Tiếng kêu ro ro phát từ tai nghe của tôi. Một giây sau, tôi nghe thấy giọng nói quen thuộc. “Cô Iparis?” Thomas nói. “Có phải cô không?”

“Tôi đây,” tôi thì thầm. “Tôi ổn.”

“Tôi muốn biết cô đã làm những gì, cô Iparis. Tôi đã cố gắng liên lạc với cô suốt hai mươi tư giờ qua. Tôi đã sẵn sàng cử vài người lính đến đón cô, cả cô và tôi đều biết Chỉ huy Jameson sẽ vui như thế nào với cái tin đó rồi đấy.”

“Tôi ổn,” tôi nói một lần nữa. Tay tôi nhét sâu vào túi và kéo ra chiếc vòng cổ của Day. “Bị chấn thương nhỏ trong một trận Skiz. Không có gì nghiêm trọng cả.”

Tôi nghe thấy một tiếng thở dài từ đầu bên kia. “Vậy cô sẽ không được hành động khi để micro tắt lâu như vậy, cô nghe rõ chứ?” anh nói.

“Được rồi.”

“Cô tìm được manh mối nào chưa?”

Tôi liếc lên nơi anh chàng kia ngồi đung đưa chân. “Không chắc. Một cậu thanh niên cùng một cô bé đã giúp tôi thoát khỏi vụ Skiz lộn xộn đó. Cô bé băng bó vết thương cho tôi. Tôi tạm ở lại với họ cho đến khi có thể đi lại bình thường.”

“Đi lại bình thường?” Thomas cao giọng. “Chấn thương nhỏ kiểu gì vậy?”

“Chỉ là dao đâm thôi. Có gì to tát đâu.” Thomas nghẹt giọng lại nhưng tôi lờ anh đi và nói tiếp. “Mà thôi, đó không phải vấn đề. Anh chàng kia đã làm ra một quả bom bụi kỳ lạ để chúng tôi trốn thoát khỏi khu vực đấu Skiz. Cậu ta có chút kỹ năng. Tôi không biết cậu ta là ai, nhưng tôi sẽ khai thác thêm thông tin.”

“Cô nghĩ cậu ta là Day?” Thomas hỏi. “Day có vẻ không giống với kiểu người đi khắp nơi để cứu giúp mọi người.”

Hầu hết các hành vi phạm tội trong quá khứ của Day đều liên quan đến cứu người. Tất cả trừ anh Metias. Tôi hít một hơi sâu. “Không. Tôi không nghĩ như vậy.” Tôi hạ thấp giọng nói đến khi nó chỉ còn nghe như một lời thì thầm. Tốt nhất là không nên nói ra những suy đoán liều lĩnh của mình với Thomas ngay bây giờ, không khéo anh lại quyết định cầm đèn chạy trước ô tô và gửi quân đi theo tôi. Chỉ huy Jameson sẽ đá tôi ngay khỏi đội của của bà nếu chúng tôi tiêu tốn nhiều tiền như vậy mà không thu lại được gì. Vả lại. Hai người này đã cứu tôi khỏi tình huống cực kỳ nguy hiểm. “Nhưng họ có thể biết điều gì đó về Day.”

Thomas im lặng một lúc. Tôi nghe thấy một vài tạp âm, tiếng tĩnh điện, và rồi giọng nói mờ mờ của anh cùng với giọng Chỉ huy Jameson. Chắc anh đang kể với bà về chấn thương của tôi, hỏi bà xem liệu có an toàn khi để tôi hoạt động một mình không. Tôi thở dài khó chịu. Làm như trước đây mình chưa bao giờ bị thương vậy. Sau vài phút, anh quay trở lại. “Vậy, hãy cẩn thận.” Thomas dừng lại một lúc. “Chỉ huy Jameson nói cứ để cô tiếp tục làm nhiệm vụ nếu chấn thương không quá nặng. Bà ấy hiện đang bận việc của đội. Nhưng tôi cảnh báo cô. Nếu micro của cô còn tắt quá lâu một lần nữa, tôi sẽ cử lính đi theo cô, cho dù việc đó có làm lộ vỏ bọc của cô hay không. Nghe rõ chứ?”

Tôi phải hết sức để kiềm chế cơn tức giận của mình. Chỉ huy Jameson không tin tôi có thể hoàn thành bất cứ điều gì trong nhiệm vụ này, sự thiếu quan tâm của bà thể hiện trong từng câu trả lời của Thomas. Còn với Thomas... hiếm khi anh nghiêm khắc với tôi như vậy. Tôi có thể tưởng tượng anh căng thẳng như thế nào trong những giờ qua. “Dạ rõ, thưa sếp,” tôi nói. Khi Thomas không trả lời, tôi nhìn lên phía chàng thanh niên kia một lần nữa. Tôi tự nhủ phải quan sát cậu ta kỹ càng hơn khi tôi đi lên tầng và không để vết thương này làm mình sao nhãng.

Tôi nhét mặt dây chuyền trở lại vào trong túi rồi đứng dậy.

☆ ☆ ☆

Tôi quan sát ân nhân của mình cả ngày khi đi theo cậu ta quanh khu Alta của Los Angeles. Tôi để ý mọi thứ, kể cả những điều nhỏ nhặt nhất.

Ví dụ như cậu ta hay dùng chân trái. Bước đi khập khiễng rất khó phát hiện đến nỗi tôi không thể nhận ra khi cậu ta đi bên cạnh Tess và tôi. Tôi chỉ nhìn thấy khi cậu ta ngồi xuống hoặc đứng dậy, chút xíu do dự khi cậu ta gập đầu gối. Hẳn là một vết thương nghiêm trọng đã từ lâu nhưng không hồi phục hoàn toàn hoặc một vết thương mới nhưng nhẹ. Có thể là một cú ngã khá mạnh.

Đó không phải vết thương duy nhất của cậu ta. Thỉnh thoảng cậu ta lại nhăn mặt khi cử động cánh tay. Sau khi cậu ta làm thế vài lần, tôi nhận ra rằng vết thương ở bắp tay cậu ta gây đau đớn mỗi khi cố gắng với tay ra xa.

Khuôn mặt cậu ta cân đối hoàn hảo, một sự pha trộn của dòng máu Á Đông và Anglo, vẫn tuyệt đẹp dù ẩn sau lớp bùn đất. Mắt phải của cậu ta hơi nhạt màu hơn mắt trái. Lúc đầu, tôi nghĩ là do ánh sáng, nhưng tôi lại nhận ra điều ấy một lần nữa khi chúng tôi đi qua hàng bánh và say sưa nhìn ngắm những ổ bánh mì. Tôi tự hỏi tại sao lại có thể như thế được, có phải đó là bẩm sinh không.

Tôi cũng nhận thấy những thứ khác nữa: cậu ta thuộc nằm lòng ngay cả những con phố cách xa khu Lake, cứ như thể có bị bịt mắt thì cậu ta cũng đi được; những ngón tay linh hoạt vuốt phẳng nếp nhăn ở eo áo sơ mi; cậu ta nhìn vào các tòa nhà như thể đang ghi chúng vào bộ nhớ. Tess không bao giờ gọi cậu ta bằng cái tên nào. Cũng giống như cách họ gọi tôi là “Cô gái”, họ không dùng từ cụ thể nào để định danh cậu ta. Khi tôi bắt đầu mệt mỏi và choáng váng vì đi bộ, cậu ta bảo tất cả dừng lại và tìm nước cho tôi trong khi tôi nghỉ ngơi. Cậu ta cảm nhận được sự mệt mỏi của tôi ngay cả khi tôi không nói lời nào.

Chiều dần buông. Chúng tôi thoát khỏi cái nóng thiêu đốt nhất của mặt trời bằng cách lang thang gần khu chợ trời ở phần nghèo nhất của khu Lake. Tess nheo mắt nhìn các quầy hàng từ dưới mái hiên mà chúng tôi đang trú. Chúng tôi cách các quầy hàng hơn mười lăm mét. Cô bé bị cận thị nhưng không hiểu sao vẫn phân biệt được giữa quầy hoa quả và quầy rau, phân biệt được khuôn mặt của những dân buôn, người nào có tiền và người nào không. Tôi biết điều này vì tôi có thể nhận ra chuyển động nhẹ trên nét mặt cô bé, sự hài lòng khi nhận ra điều gì đó hoặc sự thất vọng khi không thể.

“Làm sao em làm được thế?” tôi hỏi em.

Tess liếc nhìn tôi, ánh mắt tập trung lại. “Hử? Làm gì cơ?”

“Em bị cận thị. Làm thế nào em có thể nhìn thấy nhiều thứ xung quanh vậy?”

Tess dường như ngạc nhiên trong giây lát, rồi bị ấn tượng. Bên cạnh cô bé, tôi để ý anh chàng kia đang liếc nhìn mình. “Em có thể nhận ra sự khác biệt rất nhỏ của màu sắc, mặc dù chúng có thể hơi mờ,” Tess trả lời. “Ví dụ em có thể thấy những tờ tiền màu bạc thò ra từ ví của người đàn ông kia.” Cô bé đánh mắt về phía một trong những khách mua hàng ở quầy.

Tôi gật đầu với em. “Em rất thông minh đấy.”

Tess đỏ mặt và cúi nhìn xuống giày. Trong một thoáng cô bé trông ngọt ngào đến mức khiến tôi không thể nhịn cười. Ngay lập tức tôi cảm thấy tội lỗi. Làm sao tôi có thể cười như vậy ngay sau cái chết của anh trai mình? Hai con người này khiến tôi mất đi sự điềm tĩnh theo một cách rất kỳ lạ.

“Cô là một người nhanh nhạy đấy, Cô gái,” cậu thanh niên nói khẽ. Mắt cậu ta nhìn thẳng vào mắt tôi. “Tôi có thể hiểu tại sao cô lại sống sót được trên đường phố rồi.”

Tôi chỉ nhún vai. “Đó là cách duy nhất để tồn tại, phải không?”

Cậu ta nhìn đi hướng khác. Tôi thở ra. Tôi nhận ra mình đã nín thở khi ánh mắt cậu ta như làm tôi đóng băng. “Có lẽ cô mới là người nên giúp chúng ta chôm chỉa một ít đồ ăn, chứ không phải tôi,” cậu ta tiếp tục. “Mấy người bán hàng hay tin con gái hơn, đặc biệt là người như cô.”

“Ý cậu là gì vậy?”

“Cô hiểu đúng ý tôi rồi đấy.”

Tôi không thể không mỉm cười. “Giống cậu thôi.” Khi chúng tôi yên vị để quan sát các quầy hàng, tôi tự nhắc bản thân vài điều. Tôi có thể nán lại với hai người này thêm một đêm nữa, cho đến khi vết thương đủ lành để tiếp tục truy lùng thông tin về Day. Ai mà biết được, có thể họ thậm chí sẽ cung cấp cho tôi một đầu mối.

Khi buổi tối cuối cùng cũng đến và sức nóng của mặt trời bắt đầu giảm dần, chúng tôi quay trở về ven hồ và tìm kiếm một nơi để hạ trại qua đêm. Khắp xung quanh tôi thấy ánh nến lung linh dần hiện lên từ những ô cửa sổ chiếc có kính chiếc không, và đây đó người dân địa phương đốt những đống lửa nhỏ dọc theo hai bên những con ngõ. Ca làm việc mới của tuần cảnh bắt đầu. Đã năm đêm ra ngoài thực hiện nhiệm vụ rồi. Tôi vẫn không thể quen với những bức tường đổ nát, những dây treo đầy quần áo rách rưới trên ban công, những đám trẻ ăn xin mong chờ thức ăn bố thí của người qua đường... nhưng ít nhất thì sự coi thường của tôi cũng nhạt dần. Tôi xấu hổ nhớ lại cái đêm đám tang của anh Metias, khi tôi để miếng bít tết to còn nguyên trên đĩa mà chẳng nghĩ ngợi gì. Tess bước đi phía trước chúng tôi, hoàn toàn bình thản với cảnh vật xung quanh, sải chân của cô bé phấn khởi và vô tư lự. Tôi có thể nghe thấy cô bé ngâm nga khe khẽ một giai điệu nào đó.

“Điệu valse Cử tri,” tôi thì thâm khi nhận ra bài hát.

Cậu thanh niên liếc nhìn tôi, chân sánh bước cùng tôi. Cậu ta mỉm cười. “Có vẻ như cô là một fan hâm mộ của Lincoln nhỉ?”

Tôi không thể nói với cậu ta là mình sở hữu tất cả các album của Lincoln, cũng như một vài thứ đồ lưu niệm được ký tặng, rằng tôi đã xem cô ấy trình diễn những ca khúc chính trị trực tiếp tại một bữa tiệc hoặc rằng cô ấy từng viết một bài hát ca ngợi từng vị tướng Cộng hòa ngoài mặt trận. Thay vào đó tôi mỉm cười, “Ừ, có lẽ vậy.”

Cậu ta đáp lại nụ cười của tôi. Răng cậu ta thật đẹp, hàm răng đáng yêu nhất tôi từng nhìn thấy trên đường phố này cho đến giờ. “Tess yêu âm nhạc,” cậu ta nói. “Cô bé luôn kéo tôi qua các quán bar quanh đây và bắt cả hai chờ ở gần đó trong khi cô bé lắng nghe các bài hát được chơi trong quán. Tôi không rõ nữa. Chắc là mấy trò con gái.”

Nửa tiếng sau, cậu ta lại bắt đầu nhận thấy vẻ mệt mỏi của tôi. Cậu ta gọi Tess lại và dẫn chúng tôi vào một trong các con ngõ, nơi một loạt các thùng rác kim loại lớn xếp chặt giữa hai bức tường. Cậu ta đẩy một chiếc thùng ra để lấy chỗ cho chúng tôi. Rồi cậu ta nấp đằng sau, ra hiệu cho tôi và Tess ngồi xuống và bắt đầu tự cởi nút áo ra.

Mặt tôi đỏ như gấc và tạ ơn tất cả các vị thần trên thế giới vì đã cho bóng tối bao bọc xung quanh chúng tôi. “Tôi không lạnh và tôi cũng không chảy máu,” tôi nói với cậu ta. “Hãy mặc quần áo vào đi.”

Cậu ta nhìn tôi. Tôi thậm chí đã mong cho đôi mắt sáng của cậu ta bớt rực rỡ đi trong đêm, nhưng thay vào đó nó dường như lại phản chiếu ánh sáng từ các khung cửa sổ phía trên chúng tôi. Cậu ta tỏ ra thích thú. “Có ai nói gì đến cô đâu, cưng?” Cậu ta cởi áo, gấp gọn gàng và đặt trên mặt đất bên cạnh một bánh xe thùng rác. Tess ngồi xuống và thản nhiên gối đầu lên nó như một thói quen từ lâu.

Tôi hắng giọng. “Tất nhiên rồi,” tôi lẩm bẩm. Tôi lờ đi tiếng cười rúc rích của cậu ta.

Tess thức để trò chuyện với chúng tôi, nhưng được một lúc thì mắt cô bé bắt đầu díp lại và cô bé ngủ thiếp đi khi đầu vẫn gối trên áo cậu ta. Hai chúng tôi rơi vào im lặng. Tôi nấn ná ánh mắt nhìn Tess.

“Cô bé trông thật mỏng manh,” tôi thì thầm.

“Ừ... nhưng cô bé mạnh mẽ hơn vẻ bề ngoài đấy.”

Tôi ngước lên nhìn cậu ta. “Cậu thật may mắn khi có cô bé ở bên.” Mắt tôi lại hạ xuống chân cậu ta. Cậu ta nhìn thấy cử chỉ của tôi và nhanh chóng điều chỉnh tư thế. “Chắc cô bé đã giúp cậu rất nhiều khi chữa vết thương ở chân.”

Cậu ta nhận ra rằng tôi đã để ý thấy tật ở chân của cậu ta. “Không. Tôi bị thế này lâu rồi.” Cậu ta ngập ngừng, rồi quyết định không nói thêm bất cứ điều gì về nó nữa. “Mà vết thương bên hông của cô thế nào rồi?”

Tôi phẩy tay. “Không sao đâu.” Nhưng tôi thậm chí đã nghiến răng khi nói vậy. Đi bộ khắp nơi suốt cả ngày chẳng giúp được gì, và cơn đau đang bùng lên dữ dội trở lại.

Cậu ta để ý thấy vẻ căng thẳng trên khuôn mặt tôi. “Chúng ta nên thay chỗ băng đó.” Cậu ta ngồi dậy và khéo léo kéo một cuộn gạc trắng từ trong túi Tess ra mà không đánh thức cô bé. “Tôi không khéo như con bé đâu,” cậu ta thì thầm. “Nhung tôi không muốn đánh thức nó dậy.”

Cậu ta ngồi bên cạnh tôi và tháo hai nút dưới cùng trên áo sơ mi của tôi rồi kéo nó lên cho đến khi nhìn thấy băng gạc quấn quanh eo. Da cậu ta chạm da tôi. Tôi cố gắng tập trung nhìn vào đôi bàn tay cậu ta. Cậu ta với tay ra sau một chiếc ủng của mình và rút ra một thứ trông giống một con dao gấp nhà bếp (tay cầm bằng bạc không họa tiết, lưỡi đã mòn, cậu ta đã dùng nó rất nhiều lần trước đây để cắt những thứ còn chắc hơn vải nhiều). Một tay cậu ta tì nhẹ vào bụng tôi. Mặc dù những ngón tay cậu ta đã chai sạn do sống nhiều năm trên đường phố nhưng chúng vẫn rất cẩn thận và nhẹ nhàng làm tôi nóng rực hai bên má.

“Cô ngồi yên nhé,” cậu ta nói nhỏ. Rồi cậu ta đặt con dao vào giữa bụng tôi và tấm gạc để rạch đứt lớp vải. Tôi nhăn nhó. Cậu ta nhấc tấm gạc ra khỏi vết thương của tôi.

Từng dòng máu nhỏ li ti vẫn còn thấm ra từ nơi con dao của Kaede đâm tôi, nhưng may là không có dấu hiệu nhiễm trùng. Tess đúng là thạo mấy việc này. Cậu ta tháo phần còn lại của tấm gạc cũ xung quanh eo vứt sang một bên và bắt đầu quấn băng mới quanh người tôi. “Chúng ta sẽ ở lại đây cho đến cuối buổi sáng mai.” Cậu ta nói trong khi tay vẫn quấn băng cho tôi. “Đáng lẽ hôm nay ta không đi nhiều như vậy - nhưng cô biết đấy, giữ khoảng cách với những tay đấu Skiz cũng không phải là thừa.”

Bây giờ tôi không thể không nhìn vào khuôn mặt cậu ta. Chàng trai này hẳn đã suýt trượt kỳ Sát hạch. Nhưng vô lý quá. Cậu ta không giống một thằng nhóc dân lang thang tuyệt vọng. Có quá nhiều khía cạnh ở cậu ta làm tôi phân vân liệu có phải cậu ta lúc nào cũng sống trong những khu ổ chuột như thế này không. Giờ cậu ta liếc nhìn tôi, nhận ra tôi đang dò xét, và dừng lại trong giây lát. Một cảm xúc bí ẩn nào đó vụt qua đôi mắt cậu ta. Một sự bí ẩn tuyệt đẹp. Chắc cậu ta cũng đang thắc mắc tương tự về tôi, làm thế nào tôi có thể nhặt ra được nhiều chi tiết về cuộc đời cậu đến vậy. Có khi cậu ta thậm chí còn đang thắc mắc không biết tiếp theo tôi sẽ tìm ra được điều gì về cậu ta. Cậu ta ghé sát mặt tôi đến mức tôi có thể cảm thấy hơi thở phả lên má mình. Tôi nuốt nước bọt. Cậu ta tiến gần hơn một chút.

Trong một thoáng, tôi nghĩ cậu ta sắp hôn tôi.

Rồi cậu ta nhanh chóng nhìn xuống vết thương của tôi. Tay cậu ta chạm vào hông tôi khi băng bó. Tôi nhận ra rằng má cậu ta cũng ửng đỏ. Cậu ta đang xấu hổ chẳng khác gì tôi.

Cuối cùng cậu ta buộc chặt băng, giắt áo sơ mi của tôi lại như cũ và dịch ra xa. Cậu ta ngồi tựa vào bức tường bên cạnh tôi và khoanh tay trên hai đầu gối. “Mệt chưa?”

Tôi lắc đầu. Mắt tôi lơ đễnh nhìn những bộ quần áo treo trên cao, cách chúng tôi vài tầng. Nếu chúng tôi hết băng gạc thì đó sẽ là nơi tôi có thể lấy băng mới. “Tôi nghĩ mình có thể chia tay hai người sau một ngày nữa,” một lúc sau tôi nói. “Tôi biết tôi đang kìm chân hai người.” Nhưng rồi tôi thấy trong lòng mình dâng lên cảm giác tiếc nuối khi nói ra những lời đó. Lạ thật. Tôi không muốn rời bỏ họ sớm như vậy. Ở bên Tess và anh chàng đặc biệt này, tôi cảm thấy thoải mái như thể sự vắng mặt của anh Metias đã không hoàn toàn tách tôi khỏi những người quan tâm đến tôi.

Tôi đang nghĩ gì vậy? Đây là một gã từ khu ổ chuột. Tôi đã được huấn luyện để đối phó với những gã thế này, để nhìn họ từ phía kia của tấm kính chắn.

“Cô sẽ đi đâu?” Cậu ta hỏi.

Tôi tập trung trở lại. Tiếng nói cất lên lạnh lùng và tự chủ. “Có lẽ là về phía Đông. Tôi quen ở những vùng trung tâm hơn.”

Cậu ta nhìn thẳng về phía trước. “Cô có thể ở lại lâu hơn, nếu cô chỉ định đi lang thang khắp nơi trên đường phố. Tôi có thể dùng một đấu sĩ tốt như cô. Chúng ta có thể kiếm tiền nhanh chóng nhờ các trận Skiz và chia sẻ nguồn thức ăn. Cả hai bên đều sẽ dễ kiếm sống hơn.”

Cậu ta đề xuất ý kiến này một cách thành thật đến độ tôi phải mỉm cười. Tôi quyết định không hỏi tại sao cậu ta không tự mình đấu Skiz. “Cảm ơn, nhưng tôi thích làm việc một mình.”

Cậu ta tiếp lời ngay. “Cũng hợp lý.” Vừa nói cậu ta vừa tựa lưng vào tường, thở dài và nhắm mắt lại. Tôi nhìn cậu ta một lúc, chờ cậu ta mở đôi mắt sáng rực ấy ra nhìn thế giới một lần nữa. Nhưng cậu ta không làm vậy. Một lúc sau, tôi nghe thấy hơi thở cậu ta dần ổn định và thấy cậu ta gục xuống đầu, và tôi biết cậu ta đã ngủ rồi.

Tôi suy nghĩ về việc liên hệ với Thomas. Nhưng ngay lúc này tôi không có tâm trạng nghe giọng nói của anh. Tôi cũng không biết chắc tại sao. Sáng mai, đó là việc đầu tiên. Tôi ngửa cổ nhìn chằm chằm quần áo treo trên đầu. Ngoài những âm thanh xa xôi của đám đông làm ca đêm thì đó là một đêm yên bình, giống như ở nhà vậy. Sự yên lặng làm tôi nhớ đến anh Metias.

Tôi cẩn thận không để tiếng khóc của mình đánh thức Tess và cậu thanh niên.