← Quay lại trang sách

Chương 5

Bốn hôm sau tôi vẫn còn ở Quartfourche; bớt nôn nao hơn ngày thứ ba, nhưng đờ đẫn hơn. Tôi không bắt chợt được cái gì mới lạ, trong những biến cố thường nhật cũng như trong những câu chuyện của người nhà; tôi đã cảm thấy tính hiếu kỳ chết lần hồi đói lả. Đành phải từ bỏ không khám phá thêm được gì, tôi nghĩ thầm, một lần nữa rục rịch khăn gói. Chung quanh tôi, tất cả đều không chịu mách bảo cho tôi; ông cha giả điếc từ hôm tôi để lộ rằng điều ông biết giúp ích cho tôi lắm; Casimir càng tỏ ra tin cậy ở tôi, tôi càng cảm thấy lúng túng trước mặt nó; tôi hết dám hạch hỏi nó, vả chăng nó có được những gì đáng nói cho tôi bây giờ tôi biết hết rồi; chẳng có gì hơn cái hôm nó đưa bức chân dung.

À không, có chứ, thằng bé hồn nhiên mách cho tôi biết tên mẹ nó. Có thể tôi đã điên rồ cao hứng đến thế vì một tấm hình mơn trớn e đã xưa mười lăm năm hơn; và giá Isabelle de Saint-Auréol, suốt chuỗi ngày tôi ở tại Quartfourche này, thử xuất hiện chớp nhoáng, mà bây giờ tôi đã biết nàng hay làm thế, e tôi không thể, không dám đặt mình trên lối đi của nàng. Bất tất! Tư tưởng tôi bỗng nhiên bận bịu với nàng mà lọt thoát ra ngoài nỗi chán chê; mấy ngày sau này thoắt qua vèo và tôi bàng hoàng cho tuần nhật đã kết thúc. Trước, không có vấn đề tôi ở nán lại lâu hơn với ông bà Floche và công việc tôi không còn cho tôi lý do lần nữa, thế mà, sáng hôm nay nữa đấy, dạo quanh quất hoa viên mà tiết thu làm cho rộng thêm và vang dội, tôi gọi thì thầm rồi gọi lớn tiếng hơn, tên: Isabelle!… và cái tên đó thoạt tiên tôi không thích, nay đối với tôi mang mặc vẻ đài các, thấm nhuần cái hấp dẫn bất chính… Isabelle de Saint-Auréol! Isabelle! Tôi tưởng tượng áo trắng nàng trốn mất ở khúc quanh mỗi lối đi; qua đám lá lắt lay, mỗi tia sáng nhắc nhở ánh mắt, nụ cười sầu muộn, và cũng bởi tôi mù mờ chuyện yêu đương, tôi cứ nghĩ rằng mình yêu, và mừng thật đã yêu, tôi cần nghe ngóng lòng mình.

Hoa viên đẹp thế! Và nó chỉnh trang một cách cao khiết đón vẻ sầu muộn của mùa tàn. Tôi đê mê hít thở mùi rêu và lá mục. Mấy cây giẻ lớn màu hung, đã nửa thân trụi lá, vặt cành xuống tới đất; đám bụi cây thắm đỏ rực màu qua cơn mưa; đám cỏ bên cạnh xanh lên màu sắc sảo; có vài cây thủy tiên trong bồn cỏ khuôn viên; dưới kia một chút, trong lũng nhỏ, cánh đồng hồng hào mà ta thoáng thấy từ hầm đá, chỗ này tôi đến ngồi khi mưa ngớt hạt - lại ngồi xuống ngay phiến đá tôi ngồi hôm đầu tiên với Casimir; chỗ này cũng có lẽ cách đây chẳng bao lâu nàng Saint-Auréol đến ngồi mơ mộng… và tôi tưởng tượng tôi ngồi cạnh bên nàng.

Casimir thường hay theo tôi, nhưng tôi thích bách bộ một mình. Và hầu hết ngày nào mưa cũng bắt chợt tôi trong vườn; ướt mèm, tôi vào hong khô trước ngọn lửa nhà bếp. Bà làm bếp, cũng như Gratien, không ưa tôi; những món tiền đưa trước của tôi bao nhiêu lần vẫn không rứt ra nổi ba câu nói của họ. Con chó cũng thế, dỗ ngọt hay cho ăn ngon không đủ sức khiến nó thành bạn; hầu hết giờ trong ngày, Terno nằm dài trong lò sưởi lớn, và khi tôi lại gần, nó gầm gừ. Casimir, tôi thường hay bắt gặp nó ngồi ngay ở bờ thành bếp lửa, lặt rau hay đọc sách, lúc bấy giờ nó đánh một cái bép, áy náy rằng con chó của nó không tiếp tôi như bạn. Lấy cuốn sách lên khỏi tay đứa bé, tôi lớn tiếng đọc tiếp; còn nó tựa vào tôi; tôi cảm thấy nó lắng nghe tôi hết mình.

Nhưng buổi sáng hôm đó, cơn mưa rơi chầm xuống tôi đột ngột và dữ dội đến nỗi tôi vô phương nghĩ tới chuyện về lâu đài; tôi chạy đến núp chỗ nào gần nhất; đó là chiếc nhà dù bỏ phế mà ta có thể trông thấy ở mút bên kia hoa viên, gần rào sắt; nhà dù nay xiêu vẹo; tuy nhiên một chiếc phòng đầu khá rộng, tường lát thanh nhã như phòng khách một nhà dù hóng mát; nhưng bao nhiêu gỗ mối mọt chạm khẽ vào là vỡ ra…

Khi tôi vào, đẩy cánh cửa khép không kín, mấy con dơi vờn quanh rồi lao ra ngoài qua cánh cửa sổ vỡ kính. Tôi vẫn tưởng cơn mưa qua mau, nào ngờ giữa lúc kiên gan thì bầu trời sầm tối khắp nơi. Thế này là bị mắc nghẽn còn lâu! Bây giờ mười rưỡi; mười hai giờ mới ăn. Tôi sẽ chờ tới tiếng chuông đầu tiên mà thế nào ở đây cũng nghe ra, tôi nghĩ thầm. Tôi có mang theo thứ cần dùng để viết và bởi chuyện thư tín của tôi bị khất chậm, nên tôi tính chứng tỏ cho mình rằng biết cách lấp đầy một giờ không khó cho bằng biết cách lấp đầy một ngày. Nhưng tâm tưởng tôi không ngớt đưa tôi quay về nỗi phập phồng yêu đương: A! Giá biết được một hôm nào đó nàng buộc lòng tái hiện chốn này, tôi sẽ thiêu đốt mấy vách tường này bằng những lời tỏ tình say đắm… Rồi một nỗi chán chường đau xót, đẫm lệ từ từ thấm nhập lòng tôi. Tôi ngồi rút vào góc phòng, không tìm ra ghế ngồi, và giống như thằng bé thất lạc, tôi chảy nước mắt.

Tiếng chán chường thật quá yếu để diễn tả bao nỗi khốn đốn bất kham mà tôi hằng nhận chịu; chúng xâm chiếm ta bất ngờ; cái đặc điểm của giờ khắc phô bày bao nỗi ấy ra; giây lát trước đó, tất cả đều vui cười với ta và ta vui cười với tất cả mọi thứ; bỗng đâu một lớp hơi vẩn khói bốc lên từ tâm khảm và len lỏi vào giữa điều ham muốn và đời sống; nó làm thành một lớp ngăn mờ, tách ta rời khỏi ngoại giới với cái nhiệt độ, với tình yêu, màu sắc, sự điều tiết chỉ còn tới với ta xiên lệch dưới hình thức một sự đổi dời vị trí trừu tượng; ta ghi nhận, ta không còn xúc cảm; và sự nỗ lực vô vọng, nhằm chọc thủng lớp ngăn cách trở tâm hồn dễ bề dẫn dắt ta tới đủ điều tội ác, tới giết người hay tự sát, tới điên loạn…

Trong khi nghe mưa róc rách tôi mơ màng bao nhiêu điều đó. Tôi giữ trong tay con dao mở sẵn để chuốt viết chì, nhưng trang giấy sổ tay vẫn trống không; bây giờ, với mũi dao, tôi cố thử khắc tên nàng lên mảnh gỗ gần bên; chẳng tin tưởng gì, nhưng vì tôi biết bọn tình nhân lóng cóng quen làm thế; lớp gỗ mục cứ rã ra hoài; lỗ thủng hiện ra thay vào chỗ chữ khắc; liền đó, không chú tâm gì nữa, hết việc làm, một nhu cầu phá hoại ngu ngốc, tôi bắt đầu cắt rạch vu vơ. Miếng gỗ bị tôi phá nằm ngay dưới cửa sổ; khung cửa rã ra ở phần trên như thể cả mảng gỗ có thể tuột xuống tuột lên trong đường rãnh hai bên; đó là điều tôi nhận thấy khi con dao tôi cố sức bất thần nâng mảng gỗ lên.

Vài lát sau tôi đã cắt măm mún miếng gỗ. Theo mảng vụn gỗ, một tấm phong bì rơi xuống sàn nhà; lấm lem, mốc meo, tấm phong bì đã ăn màu tường, đến nỗi thoạt tiên nó không gây kinh ngạc cho mắt tôi; phải, tôi không kinh ngạc khi thấy nó; không có vẻ gì đáng ngạc nhiên vì nó có ở đấy và tôi dửng dưng đến độ không tức tốc tìm cách bóc nó ra. Xấu mặt, xám xịt, lấm bẩn, tôi đã bảo nó giống như miếng vôi rời rã. Tôi cầm nó lên và vì vô công rỗi việc, tôi xé nó ra cũng như máy vậy. Tôi rút ra hai tờ giấy đặc chữ viết lớn không hàng lối, bạc màu, gần nhòa đi đôi nơi. Thư kia đến đây làm cái gì? Tôi nhìn chữ ký và lóa mắt: tên Isabelle dưới mấy tờ giấy đó!

Nàng đã choán thần trí tôi đến độ này… trong một lát tôi có ảo giác nàng viết cho chính tôi:

Anh ơi, đây là lá thư cuối cùng của em… - Lời nàng. - Đôi lời vội vàng này nữa thôi, vì em biết đêm nay em không thể nói gì thêm với anh; môi em, bên anh, không còn tìm được gì khác ngoài âu yếm. Nhanh lên trong khi còn có thể nói được với anh; anh hãy nghe:

Mười một giờ sớm quá; nửa đêm thì hơn. Anh biết em nóng lòng chết được và đợi chờ khiến em hụt hơi, nhưng muốn em tỉnh trí với anh thì cả nhà phải ngủ hết. Phải, nửa đêm; đừng sớm hơn. Anh đến gặp em tận cửa nhà bếp (men theo bờ tường vườn cây trái lấp vào bóng tối và kế đó có những bụi cây), anh chờ em ở đó chứ đừng ở trước rào sắt, chẳng phải em sợ băng vườn một mình, nhưng vì chiếc xắc mang theo ít áo sẽ nặng lắm và em sẽ không có sức mang nó lâu được.

Đúng vậy, tốt hơn cho xe nằm dưới con đường hẻm, tại đây mình sẽ tìm ra nó dễ dàng. Vì chó ở nông trại có thể sủa và đánh thức, như thế kỹ hơn.

Không phải thế, anh ạ, anh biết mà, không có cách gì cho chúng ta gặp gỡ thêm nữa, cam chịu vậy hẳn nhiên thôi. Anh biết rằng em ở đây tù hãm, và các cụ không còn cho em ra ngoài cũng như không cho phép anh trở về. Trời! Em vượt ngục… Vâng em sẽ thận trọng mang theo giày để thay, em sẽ mang vào ngay khi hai đứa vào trong xe, vì cỏ vườn ở phía dưới ướt sũng.

Làm sao anh còn có thể hỏi em quyết định và em sẵn sàng chưa? Kìa anh, hàng tháng nay em chuẩn bị và em đã sẵn sàng rồi chứ! Hàng năm em sống trong chờ đợi giây lát này đây! - Và hỏi em rồi đây không tiếc gì sao? - Thế là anh đâu có hiểu rằng em ghê cho tất cả những ai quyến luyến em, tất cả những người quyến luyến em chốn này. Isa hiền lành, Isa ngại ngùng đang lên tiếng đây ư? Anh ơi, yêu ơi, anh đã biến em thành ra gì đây, hỡi tình?…

Em chết ngạt mất ở đây, em tưởng tới cái cõi ngoài khắp khắp hé ra… Em khao khát..

Em suýt quên nói cho anh hay rằng vô phương lấy mấy hạt lam ngọc trong tráp, vì dì em không để chìa khóa trong buồng nữa rồi; không có chìa khóa nào em thử vừa vặn được với ngăn tủ. Anh chớ trách em; em có chiếc cà rá của mẹ, sợi dây chuyền nhiều màu và hai chiếc nhẫn - chắc chẳng đáng giá nhiều vì mẹ không đeo; nhưng em tưởng sợi dây chuyền đẹp lắm. Còn tiền bạc em sẽ cố sức; nhưng anh cũng nên xoay xở nữa đi.

Cầu nguyện mọi điều cho anh. Hẹn gặp anh sau, em Isa.

Hôm nay 22 tháng Mười, sinh nhật năm hai mươi hai tuổi và một ngày trước buổi thoát ly.

Tôi, nghĩ mà kinh hoàng, giá tôi thêu dệt câu chuyện kia thành tiểu thuyết, tới bốn hay năm trang diễn rộng ra mà ở đây kể cũng nên thổi phồng lên: những suy niệm khi đọc thư xong, những nghi vấn, những bồi hồi… Kỳ thật, như sau một chấn động cực kỳ dữ dội, tôi bị rơi vào một trạng thái nửa tỉnh nửa mê. Mãi cuối cùng vọng đến tai tôi, xuyên qua những tiếng xôn xao hỗn tạp của bầu máu trong người, một tiếng chuông, tiếng chuông lặp lại; hồi chuông thứ hai gọi ăn đấy, tôi nghĩ; làm sao tôi không nghe hồi chuông đầu? Tôi lấy đồng hồ ra: mười hai giờ! Vọt ngay ra ngoài, lá thư nóng hổi ép vào tim, tôi lao mình đầu trần dưới mưa dầm.

Ông bà Floche đã khởi sự lo lắng về tôi, và đến khi tôi về tới hổn hển, thì:

- Kìa ông đẫm hết! Ướt đẫm hết rồi còn gì, ông!

Kế đó ông giao hẹn không được ai ngồi vào bàn trước khi tôi thay xong quần áo; và khi tôi trở xuống, họ ân cần hỏi han; tôi buộc lòng thuật lại rằng, bị cầm chân lại trong nhà dù, tôi hoài công chờ mưa ngớt; bây giờ họ xin lỗi hộ cho thời tiết xấu, cho tình trạng thê thảm của đường sá, cho điều gióng hồi chuông thứ nhì có lẽ hơi sớm, hồi chuông thứ nhất không được rõ như thường ngày… Bà Verdure đi kiếm một chiếc khăn quàng và mọi người năn nỉ tôi quàng lên vai, vì tôi còn ra mồ hôi và dám nhuốm bệnh. Trong khi đó ông cha quan sát tôi không nói tiếng nào, môi mím lại đến độ khinh khỉnh; và tôi cáu đến nỗi, trước con mắt dò xét của ông, tôi cảm thấy mình đỏ mặt và lúng túng như thằng nhỏ phạm lỗi. Tuy nhiên, tôi nghĩ, cần vuốt ve ông, bởi từ giờ về sau tôi có được biết gì là chỉ nhờ có ông ta thôi; chỉ có ông mới có thể làm sáng tỏ cho tôi cái ẩn khúc của câu chuyện tối tăm này mà tính hiếu kỳ thì ít, tình yêu thì nhiều đã bắt đầu hướng tôi đi tới.

Cà phê xong, điếu thuốc tôi mời ông cha dùng làm viện dẫn cuộc đối thoại: Để khỏi phiền bà nam tước, chúng tôi ra ngoài nhà cam hút thuốc.

Bỗng một giọng nói xa gần, ông cha bắt đầu:

- Tôi cứ tưởng cậu phải ở đây có tám hôm thôi.

- Lúc đó tôi kể ngày mà không kể tính hòa ái của chủ nhân.

- Thế còn tài liệu của ông Floche…?

- Thưa đã được lĩnh hội… Nhưng tôi đã tìm ra cái đáng bận tâm hơn.

Tôi chờ đợi một câu hỏi; không có gì. Tôi nóng lòng tiếp lời:

- Cha chắc chắn quen biết tận hóc hẻm những điều ẩn khúc của tòa lâu đài này.

Ông mở to mắt, nhăn trán, làm vẻ ngây ngô khờ khạo.

- Tại sao bà hay cô Saint-Auréol, mẹ đứa học trò của cha, không ở đây với chúng ta để săn sóc cho đứa con tật nguyền và cho cha mẹ già?

Để đóng trò ngạc nhiên cho được khéo léo, ông vứt điếu thuốc rồi xòe hai bàn tay làm thành hai cái dấu ngoặc hai bên khuôn mặt ông. Ông lẩm bẩm:

- Có thể là công việc của cô ta cầm giữ cô lại ở nơi khác… Cậu hỏi gùn ghè gì đấy?

- Hay cha muốn một câu rõ hơn: Bà hay cô Saint-Auréol, mẹ của học trò cha, đã làm gì cái đêm 22 tháng Mười, đêm mà người yêu của cô phải đến đem cô đi?

Ông cha chống nạnh tay vào sườn:

- Ấy! Ấy! Ông tiểu thuyết gia - (trước đây, vì tự phụ, vì lạc lòng, tôi đã từng tâm sự như thế này mà đáng lẽ bao giờ cũng chỉ có tình cảm đậm đà mới khơi dậy thôi. Và từ buổi ông ta biết những kỳ vọng của tôi, ông cợt nhả tôi một cách đã tới độ không chấp nhận nổi). - Cậu không đi nhanh hơi quá một chút đấy chứ?… Và đến lượt tôi, tôi có thể hỏi làm sao cậu rành thế?

- Vì lá thư cô Isabelle de Saint-Auréol viết cho người tình ngày đó, không phải anh chàng nhận được, mà tôi.

Hẳn nhiên tôi phải đáng được đếm kể tới; ông cha lúc này nhác thấy một vết nhỏ trên tay áo ông và bắt đầu lấy mút móng tay chà xát vào đó; ông bắt tay dàn xếp:

- Tôi lấy làm thán phục cho cái điều… rằng hễ con người ta sinh ra làm tiểu thuyết gia, là lập tức tự cho mình đủ mọi quyền hành. Chớ còn kẻ khác sẽ coi đi coi lại trước khi tìm hiểu một lá thư không phải nhằm gửi cho mình.

- Tôi thì lại mong rằng kẻ đó sẽ không tìm hiểu mà làm gì, cha ạ.

Tôi nhìn ông chăm chăm: nhưng ông vẫn gãi gãi, mặt cúi xuống.

- Nhưng tôi không cho rằng người ta đưa bức thư cho cậu đọc.

- Bức thư tình cờ rơi vào tay tôi; phong bì cũ rích, dơ, rách hết nửa, không mang một dấu vết chữ viết gì cả; bóc ra tôi thấy thư của cô Saint-Auréol; nhưng gửi cho ai?… Cha giúp tôi với nào: Tình nhân của cô Saint-Auréol mười bốn năm trước là ai thế?

Ông cha đã đứng lên; ông bắt đầu bước đi từng bước ngắn hết dọc đến ngang khi qua phía sau chiếc ghế tôi lần nữa, ông đứng lại và hốt nhiên tôi cảm thấy hai bàn tay ông sà xuống vai tôi:

- Cậu cho tôi coi bức thư.

- Cha chịu nói không?

Tôi cảm thấy tay ông bóp siết vào mất kiên nhẫn.

- A! Đừng có điều kiện, tôi xin cậu! Cho tôi coi bức thư… chỉ có thế.

- Để tôi đi lấy. Tôi vừa nói vừa tìm cách xê ra.

- Cậu có trong túi đó mà.

Mắt ông nhắm vào đúng chỗ, như thể áo tôi trong suốt; nhưng ông không lục soát tôi đấy chứ!…

Tôi ngồi thất thế khó phòng bị mà lại phòng bị một gã to lớn mạnh hơn tôi; với lại, rồi đây, làm cách nào cho ông ta quyết định nói? Tôi quay người lại là thấy mặt ông gần sát mặt tôi, một khuôn mặt ú phừng lên, ở đó chợt hằn lên hai gân máu lớn trên trán và mấy cái bọc mắt xấu xí. Bây giờ tôi gượng cười sợ thấy hư hết mọi chuyện:

- Thôi cha ạ, cha cũng biết tò mò là cái ra làm sao rồi, thú nhận đi?

Ông lỏng tay ra; tôi đứng lên ngay tức tốc và làm bộ bước ra.

- Nếu cha không có cái vẻ cướp giật thì tôi đã đưa cho coi. - Kế, cầm tay ông. - Nhưng hãy tới cho gần phòng khách, cho tôi còn có thể kêu cầu cứu.

Bằng nỗ lực ý chí mạnh mẽ, tôi giữ được giọng khoái hoạt, nhưng tim tôi đập mạnh.

- Đây, cha đọc trước mặt tôi, - vừa nói tôi vừa rút bức thư trong túi ra; tôi muốn biết một linh mục đọc thư tình bằng mắt như thế nào.

Nhưng, tự chủ trở lại, ông chỉ còn để lộ xúc động qua cái mấp máy giật giật khó nên của bắp thịt nhỏ trên má. Ông đọc, rồi bắt mùi giấy, ngửi ngửi, nhíu mày dữ dội, khác nào đôi mắt lấy làm bất bình cho sự tham lam của mũi, sau đó gấp tờ giấy trả lại tôi, nói bằng một giọng hơi trịnh trọng.

- Đúng hôm 22 tháng Mười, tử tước Blaise de Gonfreville từ trần, nạn nhân của một tai nạn săn bắn.

- Cha làm tôi rùng mình! - (Trí tưởng tượng của tôi xây dựng tức thì một bi kịch gớm ghê). - Cha nên biết rằng tôi tìm thấy bức thư này đằng sau một tấm ván lát tường ở nhà dù, chắc chắn chàng ta đã đến đấy đón nàng.

Tới đây ông cha cho tôi hay rằng người con trưởng của dòng họ Gonfreville, mà đất đai kề bên đất đai của dòng họ Saint-Auréol, đã được tìm thấy bất động dưới một bờ rào, dáng chừng anh chàng sửa soạn leo qua, thì một cử động vụng về làm nổ cây súng của anh. Tuy nhiên, trong nòng súng không có vỏ đạn. Không ai cho tin tức gì; anh chàng xuất hành một mình và không ai trông thấy anh; nhưng, sáng hôm sau, người ta bắt gặp một con chó của Quartfourche cạnh nhà dù đang liếm một vũng máu.

Ông nói tiếp:

- Lúc đó tôi chưa đến Quartfourche này, nhưng theo tin tức tôi thu lượm, hình như rõ ràng kẻ phạm tội ác là Gratien, có lẽ y đã bắt gặp cô chủ dan díu với tử tước, và có lẽ đã phá bĩnh cái dự định trốn đi của cô (dự định này chính tôi cũng không biết khi chưa đọc thư này); y là một lão bộc dở hơi, lỗ mãng nếu cần, tin rằng có bổn phận không lùi bước trước một cái gì hết để bảo vệ tài sản của chủ.

- Người ta không bắt y là nghĩa làm sao?

- Không ai có cái lợi gì để theo đuổi y, và hai gia đình Gonfreville và Saint-Auréol cũng sợ tai tiếng chung quanh câu chuyện đáng tiếc ấy; bởi, vài tháng sau, cô Saint-Auréol cho ra đời một đứa bé khổ hại. Người ta gán sự mang tật của Casimir cho dụng công của mẹ nó làm sao để che đậy bụng chửa của mình; nhưng Chúa dạy rằng thường thường hình phạt cho bọn đàn ông lại đổ xuống con cái. Cậu hãy đi với tôi đến nhà dù, tôi tò mò muốn thấy nơi cậu tìm ra bức thư.

Bầu trời quang đãng; chúng tôi cùng đi.

Mọi sự đều êm thắm ở lượt đi; ông cha nắm lấy tay tôi; chúng tôi bước đi đều bước và chuyện trò không đụng chạm gì. Nhưng lượt về mọi sự hư hỏng. Có lẽ chúng tôi cả hai vẫn còn kích động ở một mức độ nào đó vì tính cách dị thường của câu chuyện; nhưng mỗi người một cách rất khác nhau; tôi, thoắt hết đề phòng vì chiêu đãi vui vẻ về sau của ông cha để tin tức cho tôi biết, tôi đã quên ngay chiếc áo tu của ông, quên giữ ý, tôi buông thả ra nói với ông như nói với người thường vậy. Sự xích mích khởi sự như sau đây thì phải:

- Rồi ai đây sẽ kể lại cho mình biết, - tôi nói, - đến đó cô Saint-Auréol làm những gì nhỉ! Có lẽ ngày hôm sau cô mới được tin tử tước chết! Nàng trông đợi chàng, và đợi đến bao lâu trong vườn. Không thấy anh chàng đến, nàng nghĩ sao?

Ông cha lặng im, hoàn toàn trơ trơ trước dòng trữ tình tâm lý của tôi, tôi lại nói:

- Cha tưởng tượng người thiếu nữ mảnh mai ấy, lòng nặng yêu đương buồn chán, đầu óc phát điên: Isabelle người con gái đam mê…

- Isabelle, đứa con gái dâm đãng, - ông cha lẩm bẩm.

Tôi tiếp tục như không nghe, nhưng đến lời than vãn tiếp theo đã lấy đà không cự lại:

- Cha thử nghĩ tới bao nhiêu cái phải thất vọng, bao nhiêu cái…

Ông cắt ngang lạnh lùng:

- Nghĩ tới mấy cái đó làm gì? Không việc gì phải hiểu những biến cố ngoài phạm vi khả dụng của chúng.

- Nhưng mà tùy theo mình hiểu ít hay nhiều, những biến cố hữu dụng một cách khác nhau…

- Cậu có ý gì?

- Tôi muốn nói rằng sự hiểu biết biến cố hời hợt không phải luôn luôn phù hợp, mà cũng không phải lắm khi phù hợp với sự hiểu biết sâu xa mà ta có thu nhận sau này về những biến cố đó; và tôi nói rằng bài học mà ta có thể rút tỉa ra từ đó không phải giống nhau; tốt hơn, ta xem xét trước khi kết luận…

- Cha muốn bảo người tôi chọn viết luận án…

- Anh bướng thế! Với một trí óc như thế thì…

- Này cha, tôi cũng rất muốn biết, chứ không phải chính cái tọc mạch đó xúi cha đi theo tôi giờ này sao, xúi cha lúi húi giây lát trước đây với miếng gỗ thủng, và từ từ xúi cha tìm hiểu tất cả về câu chuyện mà cha đã thuật lại cho tôi sao!…

Bước chân của ông đứt đoạn, giọng nói cụt hơn; ông gõ chiếc gậy xuống đất nóng nảy:

- Đâu phải như cậu tìm kiếm giải thích những lời giải thích, biết được sự kiện là tôi bám vào sự kiện. Những biến cố thảm hại mà tôi nói cho cậu hay có thể dạy cho tôi sự ghê tởm của tội lỗi xác thịt, nếu cần; biến cố đó lên án sự ly hôn và lên án tất cả những gì con người đã bày ra để cố bào chữa cho hậu quả những lỗi lầm của nó. Thế này đủ rồi nhé!

- Thế này chưa đủ đối với tôi. Sự kiện không là gì cả chừng nào tôi chưa đi sâu vào nguyên ủy. Biết được đời sống thầm kín của Isabelle de Saint-Auréol; biết bằng những lối đi nào có hương vị, lối đi nào ê chề tối tăm…

- Hãy giữ mình, chàng trẻ tuổi! Cậu bắt đầu đâm ra si tình đấy!…

- A! Tôi vẫn chờ đợi điều đó! Vì lớp bên ngoài không đủ cho tôi, vì tôi không bằng lòng với từ ngữ, với cử chỉ suông… Cha chắc chắn không xét lầm người đàn bà đó chứ?

- Con đĩ!

Sự tức giận làm phừng cả trán tôi; tới đây khó lòng lắm tôi mới đè nén nổi.

- Thưa cha, mấy tiếng đó lọt vào mồm cha thật bất ngờ. Hình như Chúa dạy ta dung thứ hơn là nghiêm khắc.

- Từ bao dung tới chiều lòng, chỉ có một bước.

- Ít nhất Chúa sẽ không lên án nàng như cha.

- Trước hết, cái đó, cậu chẳng biết gì đâu. Sau nữa, vì Ngài không tội lỗi nên đối với tội lỗi của người khác mới cho mình được phép bao dung hơn là người mà… tôi muốn nói rằng bọn người tội lỗi chúng ta. Không phải tìm cách bào chữa ít nhiều cho tội lỗi gì hết, phải quay lưng đi mà ghê tởm thế thôi.

- Sau khi ngửi kỹ bức thư như cha đã làm.

- Cậu xấc láo.

Và rời lối đi đột ngột, ông bước hối hả qua một con đường nhỏ băng ngang, còn tuôn ra những câu sắc lạnh giống bọn Parthes, tôi chỉ nhận ra những tiếng: giáo dục mới… sinh viên Sorbonne… tà đạo!

Khi chúng tôi gặp nhau lại ở bữa ăn tối ông cha vẫn giữ vẻ gầm mặt, nhưng khi ra khỏi bàn ăn, ông đến bên tôi cười và đưa tay bắt, tôi cũng cười nắm lấy.

Buổi tối có vẻ tẻ nhạt hơn thường lệ. Ông nam tước hư hử nhè nhẹ ở góc lò sưởi; ông Floche và ông cha đi cờ không nói lên một tiếng. Tôi liếc thấy Casimir dúi đầu vào trong tay rỏ dãi từ từ xuống cuốn sách, chốc chốc nó chậm bằng khăn tay. Tôi chỉ thí vào cuộc bài bésigue cái chú tâm cần thiết để bà đứng chung phe khỏi phải thua quá nhục nhã; bà Floche nhận biết và áy náy cho nỗi chê chán của tôi, bà ra sức cố gắng lắm để khua động cuộc bài đôi chút:

- Nào, Olympe! Đến lượt chị đi. Ngủ à? - Không, không phải giấc ngủ, mà là nỗi chết, tôi đã cảm thấy sự co rút tối ám của nỗi chết làm buốt giá các người; còn tôi đây, một mối bất an, một thứ ghê sợ se thắt mình. Ôi những mùa xuân! Ôi những làn gió bể khơi, những hương mùi đê mê, những nhạc điệu thánh thoát, tất cả mãi mãi sẽ không còn tạt đến nơi này nữa! Tôi thầm nhủ; và tôi nhớ tới nàng, hỡi Isabelle. Từ nấm mồ nào nàng đã biết thoát thân ra! Tới sự sống nào? Đây, trong ánh sáng lặng lờ của ngọn đèn, tôi hình dung nàng để trĩu vầng trán tái tê xuống ngón tay mảnh dẻ, một món tóc đen chạm mơn trớn cườm tay. Mắt nàng ôi xa xôi! Tiếng thở dài kia kể lể lời than thở nỗi phiền muộn không tên nào thế của thể xác và của tâm hồn, tiếng thở dài mà thể xác tâm hồn không nghe thấy? Và một tiếng thở dài lớn bất đồ thoát ra từ chính người tôi, tiếng thở dài nguyên từ tiếng ngáp, tiếng nấc nghẹn lời, để đến nỗi bà Saint-Auréol vứt con bài cuối cùng xuống bàn la lối:

- Chắc ông Lacase muốn đi ngủ lắm rồi.

Tội nghiệp bà!

Đêm nay tôi gặp phải một giấc mơ phi lý, một giấc mơ lúc đầu chỉ là sự tiếp nối của thực tế.

Đêm chưa dứt, tôi còn ở trong phòng khách, cạnh mấy người, nhưng một nhóm người đông mãi thêm bu lại chung quanh, mặc dù tôi vẫn không thấy người nào mới lạ đến đó; tôi nhận ra Casimir ngồi bàn trước một trò chơi kiên nhẫn có ba bốn bộ mặt xúm vào. Họ nói nhỏ, nên tôi không phân được câu gì, nhưng tôi hiểu mỗi người nói cho người bên cạnh một điều gì lạ thường và đến lượt người bên cạnh kinh ngạc, sự chăm chú dồn về một điểm, đấy, cạnh bên Casimir, nơi này tôi đột nhiên nhận ra người ngồi vào bàn, (làm sao tôi không nhận ra sớm hơn nhỉ?) Isabelle de Saint-Auréol. Một mình giữa các chiếc áo sẫm màu, nàng mặc toàn màu trắng. Ban đầu nàng hiện ra với tôi yêu kiều, khá giống như tấm hình nhỏ đã bày ra với tôi; nhưng một lát sau tôi chột dạ vì sự bất động của những đường nét nàng, sự nhìn sững của ánh mắt, và tôi chợt hiểu ra điều mà người ta rỉ tai cho nhau nghe: đó không phải là Isabelle chính thật, nhưng là con búp bê tạc hình nàng, mà người ta đặt vào chỗ nàng trong khi con người thật vắng mặt. Bây giờ hình búp bê đối với tôi hiển hiện ra đáng ghê sợ; tôi lấy làm khó chịu đâm lo nghĩ vì cái vẻ ngớ ngẩn kênh kiệu của nó; bảo rằng nó bất động, thế nhưng khi tôi nhìn nó chằm chặp, tôi thấy nó từ từ bổ nghiêng, nghiêng… nó sắp sửa đổ nhào, thì bà Olympe, từ mút phòng khách phía bên kia lao tới, cúi sát mình chấm đất giở tấm vải lót ở ghế bành và lên dây cái bộ phận máy móc nào không hiểu kêu ken két kỳ dị và đặt lại con người giả cho thẳng thớm, đồng thời truyền vào đôi tay nó một đường múa may kệch cỡm của người máy. Kế đó ai nấy đứng dậy, giờ tắt đèn đã điểm; người ta sẽ để hình nhân Isabelle một mình ở đấy: mỗi người bỏ đi chào nàng theo kiểu người Thổ, ngoại trừ ông nam tước tiến lại trịnh trọng, nâng đầu tóc nàng trọn vào tay và đặt lên đầu nàng hai cái hôn lớn kêu thành tiếng và cười vui vẻ. Đoàn người rời phòng khách xong - và tôi nom thấy đi ra cả một hàng lũ người - khi bóng tối hoàn toàn rồi, tôi trông thấy trong bóng tối, phải, tôi trông thấy búp bê nhợt nhạt, lẩy bẩy và sống dậy. Nàng dậy dàng từ từ, và đích thật là cô Saint-Auréol; nàng lướt tới bên tôi không tiếng động, bất ngờ tôi cảm thấy quanh cổ tôi vòng tay ấm áp của nàng, và tôi lai tỉnh trong hơi thở âm ỉ của nàng giữa lúc nàng bảo tôi:

- Với họ, em làm ra kẻ vắng mặt, nhưng với anh thì em có mặt đây.

Tôi không dị đoan không sợ sệt, nếu tôi có đốt đèn lên lại, là để đuổi ra khỏi mắt và trí óc tôi hình bóng ám ảnh kia, tôi phải khổ công. Tôi vẫn rình rập đủ tiếng động. Tuy nhiên giá nàng có đó! Tôi cố đọc sách nhưng vô ích: Tôi không thể để tâm vào gì khác; cứ tơ tưởng tới nàng, tôi mới ngủ lại vào buổi sáng.