Chương 3 “TÔI”-
Tuổi thơ của tôi tràn đầy những khoảnh khắc hạnh phúc, và trong những khoảnh khắc đó, tôi không cảm nhận về mình mà là về thế giới: nó có đó, tốt, đẹp, dễ chịu và tràn đầy ánh mặt trời. Những giây phút bực mình vì món ăn không ngon miệng một thứ gu tổi tệ, bị nhốt trong cũi mà giận dữ gặm chân song khi còn là con nít, bị cây kim đâm chảy máu tay, hoặc – một trong những kỷ niệm thơ ấu đau khổ nhất của tôi – khóc hàng giờ vì bị kẹp ngón tay vào cánh cửa xe hơi của ông chú, không dạy tôi điều gì về bản thân, mà là về sự xấu, về cái ác, về sự đau khổ: hãy cố mà tránh né, đừng có đụng vào. Tuy nhiên, trong những bước đi dọ dẫm, trong những ảo tưởng, những căng thẳng của ý thức chính mình, cái cảm giác tôi thuộc về tôi, tôi tạo dựng nên một con người trọn vẹn là tôi, quần thảo ở bên trong tôi như một cảm giác tội lỗi nặng nề.
Khi tôi được bốn tuổi, ông anh tôi, lúc đó sáu tuổi, bắt đầu cắp sách đi học, và trong hai năm tiếp theo, sự căng thẳng giữa hai anh em dịu dần đi. Tôi thoát khỏi một địch thủ nặng ký với sức mạnh đáng nể; giờ đây tôi có toàn bộ Nhà Pamuk, tình cảm không bị phân chia của mẹ dành trọn cho tôi suốt một ngày trời, tôi thấy mình hạnh phúc hơn, và cùng lúc, khám phá ra niềm hoan lạc của của sự cô đơn.
Khi ông anh ở trường học, tôi lấy mấy cuốn truyện tranh phiêu lưu của anh, và, được chỉ dẫn bằng những gì ông đã từng đọc cho tôi, tôi bèn tự “đọc” cho mình. Trong một buổi chiều ấm áp và dễ chịu, tôi trèo lên giường làm giấc ngủ trưa, nhưng do nao nức quá không làm sao ngủ được, tôi bèn lôi một số Tom Mix ra coi, và chẳng mấy chốc tôi thấy cái mà mẹ tôi gọi là “bibi” cứng lên. Lúc đó tôi đang coi hình một anh mọi da đỏ trần nửa người, và che phần hạ bộ bằng một miếng giẻ trắng trông giống như một lá cờ, treo tòng teng bằng một sợi dây thật mảnh vòng ngang hông ở giữa miếng giẻ vẽ một cái vòng tròn.
Một buổi chiều khác, trong lúc mặc pyjama nằm đắp mền trên giường thủ thỉ với chú gấu có từ khá lâu, tôi thấy bibi của mình lại cứng lên. Lạ là, sự kiện kỳ ảo và thật khoan khoái này – tôi phải thú thật – xảy ra khi tôi nói với con gấu, “Coi chừng, ta sẽ ăn thịt mi!” Nhưng, chẳng cần nhờ đến con gấu, tôi vẫn có thể làm cho bibi của mình cứng lên bất cứ lúc nào, chỉ cần thốt lên lời hăm dọa. Thì ra, mấy tiếng hăm dọa gây ấn tượng lớn lao này, là từ những câu chuyện mẹ tôi kể – “Coi chừng, ta sẽ ăn thịt mi!” – và với tôi, nó không chỉ có nghĩa xâu xé mà còn là tiêu hủy. Sau này, tôi khám phá ra các daeva – những quái vật có đuôi rất ghê sợ trong văn chương cổ điển Ba Tư, có bà con với quỷ, với những jinn, thường xuất hiện trong những bức tiểu họa của các họa sĩ chuyên về loại tranh thu nhỏ này – chúng trở thành khổng lồ khi tìm ra con đường từ Ba Tư xâm nhập Istanbul, vô trong những câu chuyện kể của Thổ Nhĩ Kỳ. Tôi nhìn thấy con vật khổng lồ của mình, trên trang bìa của một ấn bản rút gọn của cuốn Dale Korkut, một sử thi cổ điển của Thổ Nhĩ Kỳ. Như anh chàng da đỏ, con vật khổng lồ này cũng trần trụi nửa người, và với tôi, nó trị vì thế giới.
Câu nói, “Coi chừng, ta ăn thịt mi”, qua cách kể chuyện của mẹ tôi, có nghĩa: ăn tưoi, nuốt sống, giết, hủy diệt. Cũng năm đó, ông chú tôi tậu được một cái máy chiếu phim nho nhỏ, và thế là ông mò tới một tiệm ảnh gần nhà, thuê một lô phim ngắn, chiếu chừng mười tới mười hai phút: Charlie Chaplin, Walt Disney, Laurel và Hardy. Sau khi trịnh trọng gỡ bỏ những bức chân dung của ông bà tôi, ông cho chiếu phim lên bức tường trắng ở bên trên lò sưởi cho cả gia đình coi vào những ngày nghỉ, ngày lễ, ngày đầu năm. Trong mớ phim thường trực của ông, có một cuốn của Walt Disney ông chỉ cho chiếu hai lần rồi ngưng, và đó là do lỗi của tôi. Một tên khổng lồ bằng cả một tòa nhà nhưng ngu ngốc, đần độn, rượt chú chuột Mickey tôi đáy một cái giếng, hắn dùng tay quạt một cái, giếng lộ ra và uống nước ùng ực, chú chuột Mickey trôi tuột vào cổ họng tên khổng lồ, và thế là tôi khóc thét lén! Có một bức tranh của Goya ở viện bảo tàng Prado, Thần Saturn xé xác con trai của mình, vẽ cánh một tên khổng lồ tóm một người đàn ông ở dưới mặt đất đưa vô miệng, bức tranh khiến tôi khiếp vía đến tận giờ.
Một buổi chiều, trong khi tôi đe dọa con gấu như mọi lần, và cả nựng nịu nó, đúng lúc đó cửa phòng mở, cha tôi bước vô và bắt gặp tôi, quần xà lỏn thì tụt xuống, bibi cứng ngắc. Ông nhẹ nhàng đóng cửa phòng, khác với khi mở, và (tôi có thể nói), với một sự chút nể vì nào đó. Cho đến khi ấy, khi về nhà dùng cơm trưa và nghỉ lưng một chốc lát, ông có thói quen kiếm thằng con, hôn một cái rồi mới đi làm trở lại. Tôi áy náy nghĩ là mình làm điều gì sai quấy, và tệ hơn nữa, tôi làm như vậy chỉ để cho sướng cái thân tôi: tới lúc đó tôi hiểu ra một điều, lạc thú, chính nó, có thể trở thành mầm độc.
Cảm quan ấy được chứng nghiệm liền sau đó, trong mội lần cãi lộn kéo dài hơn lệ thường của cha mẹ tôi, và mẹ tôi bỏ đi, cô người làm phải trông nom chúng tôi tắm cho tôi. Bằng một cái giọng tịnh không có chút cảm thông nào, cô mắng tôi là “đồ cậu chó.”
Tôi không kiểm soát được những phản ứng của cơ thể; sự tình càng tệ hại thêm khi vào tuổi lên sáu hay lên bảy, tôi vào học tại một trường toàn con trai, cho tới khi tôi khám phá ra trường hợp của tôi không phải là độc nhất.
Trong những năm dài như thế tôi cứ tưởng bở chỉ một mình tôi mới có cái tài năng tồi tệ và bí ẩn đó, và cũng thật bình thường khi nghĩ rằng, phải giấu kỹ tài năng này vào trong cái thế giới khác của tôi, nơi cả hai, lạc thú và cái xấu, tha hồ mà tự tung tự tác. Đó là cái thế giới mà tôi bước vô khi cảm thấy chán ngán, và một khi vô rồi, tôi giả đò như tôi là một người khác, ở một nơi chốn khác. Và thật là quá dễ dàng trốn vô nó, cái thế giới mà tôi giấu giếm tất cả mọi người. Trong căn phòng khách của bà tôi, tôi hình dung ra mình ở trong một cái tàu ngầm. Vào lúc đó tôi vừa mới được đi coi xi nê lần đầu tiên, và đó là một phim phỏng theo tác phẩm Hai vạn dặm dưới đáy biển của Jules Verne. Tôi coi ở rạp Palace Cinema đầy bụi, điều làm tôi khiếp sợ nhất là những khoảng lặng vắng không một tiếng động của phim. Trong những xen ngột ngạt, rợn người, trong khoang tàu âm u của một bộ phim đen trắng, quái quỷ làm sao, tôi nhận ra có điều gì đó thật thân quen giống như ở nhà. Tôi còn quá nhỏ không đọc được những dòng phụ đề, và tôi để cho trí tưởng tượng lấp đầy các khoảng trống. (Ngay cả sau này, khi đọc thông suốt một cuốn sách, điều quan trọng nhất đối với tôi không phải là “hiểu” cuốn sách, mà là thêm vào ý nghĩa của nó những điều quái dị đúng đắn do sức tưởng tượng sáng tạo ra.) Tôi chẳng đã từng đọc những cuốn truyện tranh của ông anh tôi bằng cách đó ư?
“Đừng đung đưa cặp giò của cháu như thế, bà chóng mặt lắm,“ bà tôi thường nói như vậy, mỗi lần tôi lạc vào một trong những giấc mơ ngày được dàn dựng thật là chi li, tỉ mỉ.
Tôi ngưng đung đưa cặp giò, nhưng trong giấc mơ ngày của tôi, một chiếc máy bay vẫn lượn lên lượn xuống từ điếu thuốc lá Gelincik mà bà tôi đưa lên miệng hút, và chẳng mấy chốc, tôi lạc vào một khu rừng có rất nhiều thỏ, lá cây, rắn, sư tử mà vừa mới đó tôi đã hình dung ra giữa các dạng hình trên những tấm thảm. Nhập vào cuộc phiêu lưu trong một cuốn truyện tranh, tôi nhảy lên một chú ngựa, khởi sự bắn súng, giết vài mạng người. Một bên tai luôn cảnh giác với tiếng động bên ngoài, tôi nghe tiếng cửa thang máy đóng và, trước khi trở về với những tên mọi da đỏ trần trùng trục nửa người trong trí tưởng tượng, tôi nhận ra anh người làm İsmail đã lên tôi tầng lầu của chúng tôi. Tôi khoái đốt nhà, nã đạn vào những căn nhà đang cháy, rồi trốn thoát bằng những đường hầm mà tôi đào bằng hai bàn tay của chính tôi, nhẩn nha làm thịt mấy con ruồi tóm được, chúng bí mắc vào giữa kính cửa sổ và những tấm màn vải tuyn; khi rớt xuống miếng gỗ có lỗ thủng bên trên lò sưởi, chúng trở thành những tên găngxtơ cuối cùng phải trả giá cho các tội ác đã phạm. Mãi đến năm mười bốn tuổi, tôi vẫn có thói quen, mỗi khi mơ mơ màng đi trên đám mây ngọt ngào giữa thức và ngủ, thỏa mãn mình bằng cách tưởng tượng đang giết người. Tôi phải xin lỗi các nạn nhân, những bà con thân cận – một vài người, như anh tôi, quá thân cận, anh ruột mà – cũng như nhiều nhà chính trị, văn nhân, nhà buôn, và chủ yếu là những nhân vật tôi tưởng tượng ra. Còn một tội ác khác cũng thường xảy ra: tôi vuốt ve nựng nịu một chú mèo, chỉ để đá cho nó một cái, thật là độc ác khi cảm thấy bực bội, mà mỗi lần đá một cái đã đời như thế, tôi đều bật lên cười thật sảng khoái, để sau đó xấu hổ nhục nhã về mình, và nhờ vậy, tôi lại càng thêm vuốt ve nó một cách trìu mến hơn những lần sau. Hai mươi lăm năm sau, một buổi chiều, khi tôi đang đi nghĩa vụ quân sự, nhìn cả một đại đội sau khi dùng bữa trưa ngồi trong nhà ăn hút thuốc, chuyện trò tào lao, tôi nhìn cả 750 người lính gần như giống hệt nhau này và tưởng tượng tất cả thủ cấp của họ bị lìa ra khỏi cổ. Trong khi tôi đang ngắm nhìn máu họ chày ra trộn vào với khói thuốc lá, biến không gian trong nhà ăn trở thành mờ mờ ảo ảo một màu xanh lạt thật là ngọt ngào, đúng lúc đó, một người lính bạn tôi la lớn: “Ê này, đừng đung đưa hai cái cẳng của mi nữa, mi làm tao sắp phát khùng lên rồi!”
Cha tôi là người độc nhất có vẻ như biết thế giới bí mật kỳ quặc của tôi, cái thế giới mà tôi giấu giếm như một bí mật, cũng như cái vụ bibi cương cứng. Tôi càng giấu giếm nó, sự hiển nhiên về tính chất không gây hại của nó càng rõ rệt hơn với tôi.
Khi tôi nghĩ đến con gấu – con mắt độc nhất của nó đã bị tôi móc ra, trong một cơn điên khùng, thân hình thì gầy còm tơi tả, do bị tôi bứt từng đám lông ngực – hoặc nghĩ đến tên cầu thủ đá banh lớn cỡ ngón tay, mỗi lần bấm cái nút ở trên đầu là nó vung chân; và đây là thằng cầu thủ thứ ba – hai thằng trước bị tôi bẻ cổ cả, vì thích chí – đang ngắc ngoải ở nơi tôi giấu nó, và tôi băn khoăn không biết nó có đi luôn không. Hoặc là khi tôi đang lo sợ đến thất thần về những con chồn mà cô người làm Esma Hamm nói là đã nhìn thấy ở trên mái căn nhà kế bên – thề có Chúa – thì đúng lúc đó, tôi nghe cha tôi nói, “Con đang nghĩ gì vậy? Nói cho bố biết, bố sẽ cho con hai mươi lăm kurus.”
Chẳng làm sao biết liệu nên nói toàn bộ sự thực, thay đổi đi một chút, hay nói dối, và trong lúc tôi đang loay hoay như thế thì cha tôi mỉm cười, nói: “Trễ rồi con ạ – lẽ ra con phải trả lời liền.”
Liệu có phải cha tôi cũng trải qua thời giờ của ông ở thế giới khác, như tôi? Phải mất nhiều năm tôi mới biết, điều mà tôi làm khi rỗi rãi như thế gọi là mơ ngày. Do không biết cho nên câu hỏi của cha tôi khiến tôi mất cả hồn vía, và, vội vàng, như mọi lần, để tránh những ý nghĩ rối bời, tôi lờ câu hỏi của cha tôi đi, hất nó ra khỏi đầu.
Giữ bí mật thế giới thứ nhì làm tôi có thể dễ dàng đi đi về về hơn. Khi ngồi trước mặt bà tôi, một vạt nắng lấp lánh trên tấm màn – hệt như ánh đèn pha của một con tàu trên vịnh Bosphorus ban đêm – nếu tối nhìn thằng vào vạt ánh sáng và nhấp nháy mắt, ước gì nhìn thấy một đoàn phi thuyền không gian màu đỏ lướt qua, thế là chúng xuất hiện. Sau đó, tôi có thể triệu tập chúng bất kỳ khi nào tôi muốn, rồi nhẹ nhàng trở lại với thế giới thực, như bất cứ một con người bình thường nào rời một căn phòng và tắt đèn (khi còn nhỏ, mọi ngươi vẫn thường căn dặn tôi làm như vậy trong đời thực).
Sự khác biệt giữa một người nghĩ mình là Napoléon đích thị, và một người hài lòng với trò mơ ngày mình là Napoléon, là sự khác biệt giữa một anh chàng bất hạnh bị bệnh tâm thần phân lập và một anh chàng mơ mộng sung sướng. Tôi hiểu rất rõ người bị bệnh tâm thần phân lập, người đó không thể nào sống mà không mơ một thế giới khác, không khoác cho mình một con người khác, và tôi thương hại và coi thường (một cách thầm kín) họ, bởi vì họ là tù nhân của một thế giới song hành không có được một thế giới “nguyên thủy” hạnh phúc, vững vàng để trở về. Khi tôi muốn đổi chỗ với anh chàng Orhan khác, người anh em song sinh của tôi ở trong căn nhà khác, khi tôi mong ước một cuộc đời vượt quá những căn phòng, những hành lang, những tấm thảm của viện bảo tàng (ui chao, sao mà tôi thù ghét những tấm thảm quá thể!), vượt quá những người thực dụng, mê toán học, mê giải ô chữ, khi tôi cảm thấy bị tù túng trong một căn nhà ảm đạm, mà những người cư ngụ trong đó thẩy ra ngoài (mặc dù sau này gia đình tôi sẽ chối bay) những giá trị tinh thần, tình yêu, nghệ thuật, văn chương và ngay cả thần thoại, khi tôi thỉnh thoảng chạy trốn vào thế giới thứ nhì, thì không phải bởi vì tôi không hạnh phúc. Không làm gì có chuyện đó, nhất là khoảng thời gian từ bốn đến sáu tuổi, khi ấy tôi là một đứa trẻ sáng sủa, biết vâng lời và cảm thấy tình yêu thương của gần như tất cả mọi người nào mà tôi gặp, tôi được hôn hít, được chuyển từ lòng người này qua lòng người khác, được ban cho đủ thứ niềm vui thích mà một đứa trẻ ngoan ngoãn không thể nào cưỡng lại được: trái táo của người bán hoa quả (“Nhớ rửa sạch trước khi ăn,” mẹ tôi sẽ nói như vậy), những trái nho khô từ một chủ tiệm cà phê (“Sau khi ăn trưa mới được ăn nho”), những viên kẹo của một bà cô tình cờ gặp ở ngoài đường (“Nói Cám ơn cô đi”), tất cả những cái đó và nhiều thứ tương tự nữa làm tôi thấy mình cần phải tự che giấu đi những nối sợ hãi, sự kỳ cục và bất tiện của cái thế giới song song tưởng tượng của tôi.
Nếu có điều phải phàn nàn, thì đó là tôi không thể nhìn xuyên tường. Khi nhìn ra bên ngoài qua cửa sổ, tôi bực bội vì không nhìn thấy gì ở bên trong tòa nhà kế bên, không nhìn thấy gì ở đường phố bên dưới, ngoài một mẩu trời trên cao. Ở tiệm bán thịt rất nặng mùi đối diện với nhà chúng tôi (tôi quên mùi thịt khi ở trong tiệm và chỉ nhớ lại khi bước ra khỏi tiệm nhập vào cái lạnh ở bên ngoài đường phố), tôi thực là bực mình khi thấy mình lùn quá, không làm sao nhón chân lên cao hơn một chút nữa để nhìn thấy ông chủ tiệm lấy một trong những con dao của ông (con nào con nấy lớn bằng bắp chân tôi) và chặt thịt, trên một tấm thớt gỗ; tôi ghét mình không thể quan sát những quầy hàng, những mặt bàn, hay những gì ở bên trong tủ làm lạnh. Khi có tai nạn xảy ra trên đường phố, mấy người cảnh sát cưỡi ngựa tới, một người lớn đứng trước tôi, và tôi sẽ mất cả một nửa những chuyện hào hứng đang xảy ra. Tại sân đá banh mà cha tôi dẫn tôi tới coi khi tôi còn nhỏ xíu, mỗi khi đội nhà có sự cố, bao nhiêu khán giả ngồi phía trước đều đứng dậy, thế là tôi mù tịt, chẳng thế nào nhìn thấy cái cú ghi bàn nó ra làm sao. Nhưng thú thực, mắt tôi chằng bao giờ theo dõi trái banh, mà dính chặt vào mấy món ăn, món bánh mì phó mát, bánh mì nướng, những thỏi sô cô la bọc bằng giấy bạc mà cha tôi mua cho hai anh em tôi. Thảm hại nhất là lúc rời sân banh, tôi bị bủa vây bởi hàng hàng lớp lớp chân người ùa về phía cổng, chết ngạt vì một cánh rừng tối thui những ông quần dài, và những đôi giày đầy bùn đầy bụi. Tôi phải thành thực thú nhận, ngoài những bà đẹp như mẹ tôi, khó mà nói tôi yêu thích giới người lớn ở Istanbul. Tôi thấy họ xấu xí tóc tai bù xù, lông lá và cục cằn, thô lỗ. Giới đàn ông Istanbul thật vụng về, thật nặng nề, và hơi bị quá thực tế. Có thể, có một thời, họ cũng biết một điều gì đó về thế giới thứ nhì được ẩn giấu, nhưng hình như họ đã làm mất khả năng bỡ ngỡ, kinh ngạc, và quên mất mơ mộng nó ra làm sao, chính cái khuyết tật không biết mơ của họ đã làm xuất hiện những mớ lông khó thương ở những kẽ ngón tay ngón chân và ở cổ, ở mũi, ở tai của họ. Và thế là, trong khi tối khoái tỉ vì những nụ cười thân thiện – và hơn thế nữa – những món quà của họ, những cái hôn liên tục của họ chỉ làm cho tôi phải khốn khổ chịu đựng khi cọ xát mớ râu tóc xổm xoàm, khi ngửi mùi rượu, nước hoa, thuốc lá. Tôi nghĩ mấy người này thuộc loại người thấp kém, hạ tiện và ơn trời, hầu hết họ thuộc thế giới đường phố ở bên ngoài.