← Quay lại trang sách

Chương 4 Phá hủy dinh cơ của các Pasha: nỗi buồn dạo phố-

Nhà Pamuk được dựng lên ở cuối một miếng đất rộng ở Nişantaşi, nơi từng là khu vườn của một dinh cơ pasha. Cái tên Nişantaşi, “bia đá”, có từ thời mấy vị sultan muốn đổi mới hướng theo Tây phương cuối thế kỷ mười tám đầu thế kỷ mười chín (Selim III và Mahmud II), họ cho để những miếng đá trên các đồi trống phía trên cao, bên trên thành phố, tại đó họ bày trò chơi thể thao bắn súng, bắn cung; những miếng đá để đánh dấu nơi một mũi tên rơi xuống hoặc nơi một cái hũ đất bị đạn bắn vỡ; trên chúng thường có một hoặc hai dòng chữ để miêu tả dịp đó. Tới mấy sultan Ottoman, lo sợ bệnh lao và muốn hưởng thụ những tiện nghi Tây phương (cũng muốn thay đổi phong cảnh) bèn phế bỏ Cung điện Topkapi rời tới những lâu đài mới ở Dolmabahçe hay Yildiz, các tể tướng, ông hoàng cũng cho xây những dinh thự bằng gỗ của riêng họ, trên những ngọn đồi gần Nişantaşi. Mấy ngôi trường đầu tiên của tôi nằm trong dinh thự Yusuf Izzeddin Pasha và Halil Rifat Pasha. Cả hai đều bị lửa thiêu rụi và bị phá hủy khi tôi còn đang học ở đó ngay lúc chơi đá banh ở ngoài vườn. Đối diện khu nhà tôi bên kia phố, một tòa nhà khác được dựng lên từ đống đổ nát của dinh cơ Faik Bey, vị Bí thư Bộ Nghi lễ. Dinh cơ bằng đá độc nhất còn lại trong vùng là nhà ở cũ của các đại tể tướng, và họ chuyên giao nó cho hội đồng thành phố sau khi Đế quốc Ottoman sụp đổ, và thủ đô dời tới Ankara tôi còn nhớ có lần đi chủng đậu tại một dinh thự pasha cổ sau trở thành trụ sở của hội đồng thành phố. Những gì còn lại – những dinh cơ nơi các ông quan Ottoman tiếp đãi đặc sứ nước ngoài và các dinh thự của những cô con gái Sultan Abdülhamit hồi thế kỷ mười chín – là tường gạch loang lổ đổ nát, cửa kính bể, cầu thang mục nát, tối thui dưới cây dương xỉ và những cây sung hoang; nhớ đến những đổ nát hiu quạnh như vậy là thế nào cũng nhớ kèm một nỗi buồn sâu xa, ngay từ khi tôi còn là một đứa bé. Vào những năm cuối thập niên 1950, hầu hết những dinh cơ này bị đốt rụi hoặc phá hủy, dọn đường cho các khu căn hộ.

Từ các cửa sổ phía sau tòa nhà của chúng tôi ngó xuống đại lộ Teşvikiye, qua những hàng cây bách và đoạn, bạn có thể trông thấy những gì còn lại của dinh cơ viên pasha Hayrettin của Tunis, một người Circassia thuộc vùng Caucasus, đã từng là một đại tể tướng một thời gian ngắn khi xảy ra chiến tranh giữa Nga và Đế quốc Ottoman. Khi còn là một đứa con trai (vào thập niên 1930, mười năm trước khi Flaubert ngỏ ý muốn “dời tới sống ở Istanbul và mua một người nô lệ”), ông bị đưa tới Istanbul và bị bán làm nô lệ, sau cùng kiếm được đường vào nhà quan Tổng trấn Tunis, ở đó, ông được nuôi nấng, và được dạy nói tiếng Ả Rập, trước khi được đưa đi Pháp sông nốt thời trai trẻ còn lại. Trở về Tunis, ông gia nhập quân đội, nhanh chóng lên cấp, giữ những chức vụ chóp bu tại bộ chỉ huy, văn phòng tổng trấn, khu vực ngoại giao và bộ tài chính. Sau cùng, khi đã lục tuần, ông từ nhiệm về Paris, trong khi ông đang ở đó, Abdülhamit (qua đề xuất của một người Tunis khác là Sheikh Zafiri) cho mời ông tới Istanbul. Sau khi cử ông làm cố vấn tài chính một thời gian ngắn, ban cho ông chức đại tể tướng. Vậy là viên pasha trở thành một trong những người đầu tiên thuộc hạng rất đông chuyên viên tài chính có học vấn, gốc gác người nước ngoài, những người được giao trách nhiệm làm sao kéo Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi một biển nợ, và, còn hơn thế nữa (cũng giống như ở nhiều nước nghèo khác), làm sao thực hiện được giấc mơ đổi mới đất nước đế theo kịp Tây phương. Dân chúng mong đợi ở nơi ông, cũng giống như ở những người kế tục ông, giản dị chỉ vì ông có chất Tây phương, nhiều hơn là chất Ottoman hay chất địa phương Thổ Nhĩ Kỳ. Và cũng chính vì cùng một lý do như vậy – ông không phải người Thổ Nhĩ Kỳ – mà ông cảm thấy thật nhục nhã ê chề. Dân chúng xì xào về ông, chẳng hạn, viên pasha Hayrettin người Tunis này ghi chép bằng tiếng Ả Rập trên đường trở về nhà trên chiếc xe ngựa, sau những buổi gặp gỡ trao đổi bằng tiếng Thổ tại cung điện, và sau đó, sẽ đọc chúng cho thư ký của mình bằng tiếng Pháp. Phát súng ân huệ xảy ra sau một bản báo cáo về những chuyện xầm xì rằng tiếng Thổ của Ngài thật tệ, và Ngài đang ấp ủ một mục tiêu bí mật nhằm thành lập một quốc gia nói tiếng Ả Rập; tuy thừa biết đó toàn là chuyện bá láp, Abdülhamit, người-chẳng-hề-bao-giờ-nghi-ngờ nhưng kỳ cục làm sao lại để tai đến những lời tố cáo và bãi chức tể tướng của pasha.

Bởi vì không thể nào có chuyện một ngài tể tướng bị bãi chức mà lại được phép về nước Pháp để mà nghỉ ngơi, thế là pasha bị bắt buộc phải sống những ngày tàn của mình tại Istanbul, mùa hè ở villa thuộc vịnh Bosphorus, tại khu Kuruçeşme, và mùa đông, như là một tù nhân một nửa, tại dinh cơ nơi khu vườn mà sau này chúng tôi xây dựng khu căn hộ. Khi không phải viết báo cáo cho Ngài Abdülhamit, ông tiêu thời gian của mình bằng cách viết hồi ký bằng tiếng Pháp. Hồi ký này (mãi tám mươi năm sau đó mới được dịch sang tiếng Thổ) chứng tỏ tác giả là một con người nghiêng về bổn phận hơn là một con người hóm hỉnh, biết nói chuyện khôi hài: Ông đề tặng cuốn sách cho nhưng con trai của mình, một trong số họ sau đó bị xử tử do dính vô một âm mưu ám sát Đại Tể Tướng Mahmut Şevket Pasha, vào thời gian này của Abdülhamit đã mua dinh cơ của ông cho cô con gái là Şadiye Sultan.

Nhìn những tòa dinh cơ của các pasha bị thiêu rụ thành tro than, gia đình chúng tôi giữ một thái đó kính nhi viễn chi – đây là cung cách mà chúng tôi áp dụng, khi phải nghe những câu chuyện về các ông hoàng khùng, những kẻ ghiền ma túy trong hậu cung, những đứa trẻ bị giam trong căn gác xép khóa cửa, những cô con gái xảo trá của sultan, những pasha bị lưu đày hay bị giết – và sau cùng là sự suy tàn và sụp đổ của bản thân đế quốc. Theo cái nhìn của chúng tôi, cư dân của Nişantaşi, nền Cộng hòa sau khi xóa sạch những pasha, những ông hoàng, những ông quan to, các dinh cơ trống rỗng mà họ để lại chỉ còn là những sự tình bất bình thường hư nát.

Gia đình chúng tôi tới Nişantaşi trong những năm ba mươi, vào thời điểm nền Cộng hòa thanh trừng mọi pasha Ottoman, những người thừa kế của hoàng gia và các ông quan to khác của Đế chế, khi ấy các dinh cơ gần sát Cung điện bắt đầu không ở được nữa vì không được sửa chữa, và rồi bị ngọn lửa thiêu rụi.

Tuy nhiên, sự buồn bã của nền văn hóa đang chết dần chết mòn này, thì ở xung quanh chúng tôi, đâu đấy cũng thấy. Mong muốn Tây phương hóa, hiện đại hóa càng lớn lao bao nhiêu, thì mong ước làm sao dứt ra được khỏi những hồi ức chua cay của một đế quốc sụp đổ càng thê lương tuyệt vọng bấy nhiêu, chẳng khác gì một người bị bỏ rơi vứt bỏ quần áo, đồ đạc, hình ảnh của một người thân yêu đã mất đi. Nhưng chẳng có gì, Tây phương cũng như địa phương, có thể lấp đầy sự trống rỗng, và chính cái sự hăm hở Tây phương hóa kia, chính cái sự hối hả tìm đủ mọi cách xóa nhòa quá khứ đó, khiến cho những gia đình như chúng tôi chẳng hạn, đúng ra là mừng rỡ vì những tiến bộ của nền Cộng hòa, thì lại biến căn phòng khách nhà mình thành viện bảo tàng cho một nền văn hóa chưa từng trải qua. Cái điều mà sau này tôi hiểu như là một nỗi buồn man mác hoài hủy và như một huyền bí, thì hồi còn nhỏ, tôi lại coi là sự buồn chán, ủ ê, ảm đạm. Chính cái tình cám buồn bã thấm đậm vào tới tận xương tận tủy của thành phố đó khiến tôi ý thức ra sự cần thiết phải xây dựng một thế giới giả tướng của riêng tôi, nếu tôi không muốn trở thành tù nhân của thứ âm nhạc “alaturka” mà bà tôi cứ mỗi lần nghe là lại nhấp nhấp chân đánh nhịp theo. Tôi chạy trốn trạng thái đó bằng cách bồi bổ những giấc mơ.

Còn một cách nữa để chạy trốn nó: đi ra ngoài với mẹ tôi. Vào thời kỳ đó, cái chuvện đưa con cái đi dạo phố, đi vườn chơi để hưởng chút không khí trong lành chưa trở thành một thói quen, bởi vậy, mỗi lần được mẹ cho đi dạo phố là một sự kiện trọng đại. “Ngày mai tao được đi ra ngoài với mẹ tao!” tôi la lớn với thằng con trai của cô tôi, kém tôi ba tuổi. Sau khi đi xuống cái cầu thang xoắn ốc, chúng tôi sẽ ngưng một lát trước cái cửa sổ nhỏ đối diện với một cửa lớn, qua đó, người gác cửa có thể nhìn thấy mọi người ra vào (khi ông ta không có mặt ở trong căn phòng dưới hầm tòa nhà). Tôi sẽ nhìn qua kính cửa sổ để kiểm tra quần áo, và mẹ tôi sẽ coi lại, xem có quên cài một cái nút áo nút quần nào không; một khi ra đến bên ngoài, tôi sẽ la lên bằng một cái giọng hết sức là sảng khoái: “Phố đây rồi!”

Mặt trời, không khí trong lành, ánh sáng. Căn nhà của chúng tôi thì tối thui đến nỗi bước chân ra ngoài thì chẳng khác gì mở mọi màn cửa đánh ào một cái, vào một ngày hè ánh sáng ùa vào làm nhức cả mắt. Cầm tay mẹ, tôi nhìn như bị hớp hồn những món hàng bày biện bên trong cửa kính các cửa tiệm: qua cửa kính ẩm hơi nước của một tiệm bán hoa, những bông anh thảo trông chẳng khác gì những con chó sói đỏ với chiếc mũi dài; tại cửa kính tiệm giày dép những đôi giày cao gót treo lủng lẳng bằng những sợi dây gần như vô hình; tại tiệm ủi giặt, cửa kính cũng ẩm hơi nước (giống hệt ở tiệm hoa), đây là nơi cha tôi thường sai người làm đưa những chiếc áo sơ mi của ông tới để giặt ủi. Chính là từ cửa kính tiệm bán đồ văn phòng – mà tôi nhìn thấy ở trong đó có bày bán loại vở học sinh anh tôi dùng – mà tôi học được một bài học dễ dàng: Các thói quen của gia đình chúng tôi, và những đồ dùng mà chúng tôi sở hữu, chúng không phải là độc nhất, và còn có những gia đình ở bên ngoài căn hộ của chúng tôi, họ cũng sống rất ư là tương tự như cuộc sống của chúng tôi. Trường tiểu học nơi anh tôi đang học mà năm tới tôi cũng sẽ học, thì ở kế bên nhà thờ Teşvikiye, nơi tổ chức tang lễ cho mọi người khi chết. Tất cả những câu chuyện hào hứng của anh tôi, khi về nhà, về thầy giáo của con, thầy giáo của tao… đều khiến tôi tưởng tượng – y hệt mỗi đứa trẻ có riêng cho nó một người giữ trẻ – bất cứ một cậu học trò nào cũng có riêng một ông thầy giáo. Chính vì thế mà khi lần đầu tiên cắp sách tới trường, khi vô lớp, và chứng kiến ba mươi hai đứa học sinh chen vai thúc cùi chỏ bên nhau với chỉ một ông thầy, cái sự chưng hửng của tôi mới thật là sâu đậm làm sao. Việc phát giác ra rằng thực tình tôi chẳng là cái thá gì đối với thế giới bên ngoài kia chỉ càng làm nặng nề thêm cái cảm giác khi mỗi ngày phải rời khỏi mẹ tôi và những tiện nghi ở nhà. Khi mẹ tôi bước vô chi nhánh địa phương của Ngân hàng Thương mại, tôi từ chối, mà chẳng giải thích lý do, không chịu đi cùng với mẹ leo sáu bậc cầu thang tới chỗ nhân viên thu ngân: tôi sợ mình té xuống những khoảng trông giữa mấy bậc cầu thang và biến mất ra khỏi cõi đời này. Tại sao con không bước lên đây mẹ tôi từ phía bên trên gọi xuống, trong khi tôi đứng ở bên dưới, giả đò như mình là một người khác. Tôi tưởng tượng ra những những cảnh tượng trong đó không có mẹ tôi: Bây giờ, mình đang ở trong cung điện, bây giờ mình đang ở dưới một đáy giếng… Nếu chúng tôi đi dạo đến tận Osmanbey và Harbiye, quá cây xăng Mobil ở góc phố, con ngựa có cánh trên tấm biển quảng cáo khổng lồ che kín mặt tiền phía bên trên một tòa nhà sẽ tìm ra con đường đi vô những giấc mơ ngày của tôi. Có một bà già người Hy Lạp chuyên đan vớ tất, bán dây lưng và nút quần áo; bà cũng bán những “hột gà hột vịt từ trong làng,” mà bà lấy ra, từng quả một, giống như nữ trang, từ bên trong bộ ngực bóng loáng như được đánh véc ni. Trong tiệm của bà, có một bể cá, những con cá đỏ lượn lờ, há cái miệng nhỏ xíu nhưng thật đáng sợ, tính đợp mấy ngón tay tôi tì lên mặt kính. Chúng bơi từ bên dưới lên với một sự quyết tâm ngu ngốc lúc nào cũng khiến tôi thích chí. Kế bên là một tiệm nhỏ, bán báo hằng ngày, đồ dùng văn phòng, thuốc lá, chủ tiệm là Yakup và Vasil, tiệm nhỏ xíu và lúc nào cũng đông nghẹt khách, đến nỗi rất nhiều lần đi qua chúng tôi đành bỏ ý định bước vô. Có một tiệm cà phê tên là “Tiệm Ả Rập” (cũng giống như người Ả Rập ở châu Mỹ Latinh thường được coi là người Thổ, một dúm người da đen ở Istanbul được coi như là Ả Rập); cái máy xay cà phê tổ chảng của tiệm kêu ầm ầm chẳng khác gì cái máy giặt ở nhà chúng tôi, và trong khi tôi ne né khỏi nó, người “Ả Rập” mỉm cười một cách rộng lượng trước nỗi sợ của tôi. Khi những cửa tiệm như thế trở thành lỗi thời và từ từ theo nhau đóng cửa từng cái một, mở đường cho một dây những cơ ngơi hiện đại, anh em tôi sẽ chơi một trò – lấy cảm hứng từ sự tiếc nhỏ ít hơn là để nhằm kiểm tra khả năng trí nhớ của chúng tôi – như thế này; Một đứa nói; “Tiệm kế bên ‘Trường học ban đêm của nữ sinh’,” và đứa kia sẽ đọc một danh sách các hóa thân sau này của tiệm: “Tiệm bánh ngọt của bà người Hy Lạp, tiệm bán hoa, tiệm bán túi xách tay, tiệm đồng hồ, người đóng sách, tiệm trưng bày sách, và một tiệm thuốc.”

Trước khi bước vô một cửa tiệm giống như một cái hầm nơi có một ông chủ tiệm tên là Alaaddin trong năm chục năm trời bán thuốc lá, nhật báo, đồ chơi con nít, và đồ dùng văn phòng, tôi sẽ xin mẹ mua cho tôi một cái còi, một vài viên bi bằng thủy tinh, một cuốn sách màu hay một cái yo-yo. Ngay khi bà bó mấy thứ quà đó vô túi xách, là tôi chỉ muốn trở về nhà. Không phái chỉ do những những món đồ chơi mới tậu được thôi thúc.

“Đi ra chỗ công viên đã,” mẹ tôi nói, nhưng vừa nghe mẹ nói xong là tôi thấy hai chân rũ liệt, và nỗi đau, nỗi mệt như chạy từ chân lên đến tận ngực, và tôi biết tôi hết còn đi nổi nữa. Nhiều năm sau này, đứa con gái của tôi trạc tuổi tôi hồi ấy, lúc hai cha con đi tảo bộ, cũng làm nũng tôi y hệt như tôi làm nũng mẹ ngày nào; khi chúng tôi mang nó đến khám ở chỗ một bác sĩ, ông chẩn bệnh là có mệt mỏi thông thường và những chỗ đau tăng dần. Một khi bị mệt mỏi ăn sâu vào trong người, những con phố những cửa tiệm vừa mới đó bỗng nhạt nhòa đi và tôi nhìn cả thành phố trong chỉ một màu đen trắng.

“Mẹ ơi, bế con!”

“Cố bước tới Maçka,” mẹ tôi nói. “Mình sẽ về bằng xe điện.”

Xe điện lên xuống phố nhà tôi từ năm 1914, nối liền Maçka và Nişantaşi tới quảng trường Taksim, Tunel, cầu Galata, và tất cả những khu lối xóm xưa cũ, nghèo, cổ lỗ, hình như thuộc về một xứ sở khác. Vào những buổi tôi đi ngủ sớm, tôi như được ru ngủ bằng tiếng nhạc buồn của những chuyến xe điện. Tôi yêu những toa tàu bằng gỗ, những cửa kính màu xanh chàm, trên cánh cửa chạy trên bánh xe, phân cách khu vực của người tài xế với khu vực của hành khách; tôi yêu cái ma ni ven, mỗi lần cùng mẹ đứng chờ ở trạm cuối, người tài xế lại cho phép tôi loay hoay nghịch ngợm với nó… cho đến khi chúng tôi có thể trở về nhà, dọc đường, những con phố, những căn nhà, và ngay cả những cây cối đối với tôi đều cùng một màu đen trắng.