Chương 5 Đen và Trắng-
Tôi đã sống qua thành phố Istanbul của tuổi nhỏ như một nơi có hai sắc độ, mờ mịt, xám xịt, theo phong cách những bức ảnh đen trắng; tôi cũng nhớ ề nó như vậy. Quen với khung cảnh tranh tối tranh sáng của căn nhà-viện bảo tàng âm u của chúng tôi, tôi thích ở trong nhà. Con phố bên dưới, những đại lộ quá con phố, những lối xóm nghèo nàn của thành phố thì nguy hiểm như trong một bộ phim găngxtơ đen trắng. Và bởi vì quá lưu luyến với thế giới của bóng tối, tôi thích mùa đông thay vì mùa hè tại Istanbul. Tôi yêu những buổi chiều tối sớm khi mùa thu chập choạng thay thế mùa đông, khi lá cây run rẩy trong gió bấc, và mọi người, trong chiếc áo khoác đen, hay những chiếc jacket vội vã về nhà qua những con phố đang tối dần. Tôi mê nỗi buồn ngập tràn khi nhìn những bức tường của các khu nhà cũ kỹ, bộ mặt đen thui của những dinh cơ bằng gỗ, xập xệ, tàn tệ, bị con người bỏ rơi, không son phấn, không sơn phết; chỉ ở Istanbul mới có cái hình bóng, cái dáng vẻ này. Khi nhìn những đám đông trong một màu đen trắng vội vã đi trong những con phố tối đen của một buổi chiều muộn mùa đông, tôi cảm thấy họ thân thiết với tôi quá đỗi, đến nỗi tôi có cảm tưởng như thể đêm tối đã phủ lên những cuộc đời, những con phố, bất cứ một thứ gì thuộc về chúng tôi, một tấm mền đen, như thể một khi đã an toàn, êm ấm ở trong nhà, trong phòng ngủ, trên giường, chúng tôi có thể lại trở về với những giấc mơ của mình, những ngày tháng giàu có huy hoàng đã mất từ đời thuở nào, cái quá khứ đã biến thành những giai thoại huyền hoặc. Và cũng như thế, khi tôi nhìn hoàng hôn, như một bài thơ, đi xuống và nhập vào trong cái ánh sáng nhợt nhạt của những ngọn đèn vàng lặng im cúi đầu rồi nuốt gọn những khu lối xóm cũ kỹ, tôi thấy thật ấm lòng vì biết rằng đến đêm, ít nhất chúng tôi cũng được an toàn; cái sự nghèo đói xấu xa tủi hổ của chúng tôi được giấu kỹ khỏi con mắt Tây phương. Một bức hình do Ara Guler chụp đã tóm được thật là tuyệt hảo cái thần của những phố nhỏ cô đơn thời thơ ấu của tôi, nơi những tòa nhà bê tông đứng sừng sững bên cạnh những căn nhà gỗ cũ kỹ, những ngọn đèn đêm nhợt nhạt chiếu sáng cái trống không, cái chẳng có gì, và cái cảnh tượng tranh sáng tranh tối của hoàng hôn – đối với tôi, chính nó định nghĩa Istanbul – đã xuống tới (mặc dù bây giờ, những tòa nhà bê tông đã thắng thế và xóa sổ những căn nhà gỗ, nhưng cái cảm giác ngày nào vẫn còn nguyên đối với tôi). Điều kéo tôi trở đi trở lại mãi với bức hình không phải chỉ là những con phố, những vỉa hè rải sỏi, những lưới sắt trên cửa sổ, hay những căn nhà gỗ xiêu vẹo, trống rỗng – mà đúng hơn, bức hình đưa ra một giả dụ rằng, một khi màn đêm buông xuống, thì hai con người trong bức hình đang kéo hai cái bóng của họ ở đằng sau trên con đường trở về nhà thực chất đang kéo tấm màn đêm bao phủ trọn thành phố.
Vào thập niên 1950 và 1960, như mọi người, tôi mê nhìn những toán quay phim trên khắp thành phố – những chiếc xe minibus với bảng hiệu của hãng phim ở hai bên sườn, hai bóng đèn lán chạy băng máy phat điện, một souffleur[3] la thật lớn để át tiếng chạy của máy phát điện mỗi lần nhắc tuồng cho cặp vai chính, người nữ diễn viên trang điểm son phấn quá mức và vai nam chính đầy lãng mạn; những nhân viên thượng cẳng chân hạ căng tay ra sức xua đám con nít, những người lớn hiếu kỳ dạt ra xa khỏi hiện trường; cả tôi nữa, tôi mê mẩn theo dõi hàng giờ đồng hồ giống như mọi người khác. Bốn mươi năm sau, nền kỹ nghệ phim ảnh của Thổ Nhĩ Kỳ sập tiệm (gẩn như hoàn toàn là do sự bất tài của mấy tay đạo diễn, diễn viên, và nhà sản xuất, nhưng cũng còn do không thể nào cạnh tranh nổi với Hollyvvood); sau này họ vẫn còn cho chiếu những phim đen trắng cũ trên tivi, và khi nhìn những con phố những khu vườn xưa, quang cảnh vịnh Bosphorus, những dinh cơ điêu tàn và những căn phòng đen trắng, đôi khi tôi quên mất là mình đang coi phim; tê dại vì buồn, tôi cảm thấy như mình đang nhìn chính quá khứ của mình.
[3] Tiếng Pháp trong nguyên bản: người nhắc vở.
Giữa cái tuổi mười lăm mười sáu, tôi tưởng tượng mình là một họa sĩ ấn tượng của những con phố Istanbul, và đúng là một niềm vui lớn khi tôi loay hoay sơn vẽ những vỉa hè, từng cái một. Trước khi đám nghị viên thành phố vì ghen tức mà tàn nhẫn cho rải nhựa lên tất cả, đám tài xế taxi đã to mồm phàn nàn rằng những viên đá lát vỉa hè làm hư xe của họ. Họ còn than thở những cú đào đường liên miên của công nhân cống rãnh, nhà đèn, hay sửa chữa tổng quát. Mỗi lần một con phố bị đào xới, tôi thích nhìn họ lóc ra từng lát đá vỉa hè, và khi công việc xong xuôi – có nhiều khi tưởng chẳng thế nào xong nổi, nhất là những lần họ khám phá ra ở bên dưới những hành lang từ thời Byzance – tôi thích nhìn những người thợ thay thế vỉa hè, nhanh thoăn thoắt và thật nhịp nhàng, giống như người ta dệt một tấm thảm.
Những dinh cơ bằng gỗ của thời ấu thơ của tôi, và những cái nhỏ hơn, những căn nhà bằng gỗ khiêm tốn hơn ở những con phố nhỏ, chúng mỗi ngày một thêm điêu tàn. Nghèo khố, bỏ bê chẳng bao giờ sơn phết, thời gian, bụi bặm, ẩm ướt, chúng nhẩn nha làm tối đi màu gỗ, và sau cùng ban cho nó một cái màu rất ư là đặc biệt, độc nhất, nổi bật trong cả vùng đến nỗi khi còn nhỏ, tôi cứ nghĩ đó mới là màu nguyên thủy của chúng: màu đen. Một vài căn nhà có một màu nâu chìm, và có lẽ, những ngôi nhà này, ở trên những con phố nghèo nàn nhất, chưa từng biết đến chuyện sơn phết. Nhưng các nhà du lịch Tây phương vào thế kỷ mười tám và giữa thế kỷ mười chín miêu tả những dinh cơ của giới giàu có, được sơn phết một cách sáng sủa, và nhận ra ở chúng và ở những bộ mặt khác của sự giàu có, một vẻ đẹp của quyền thế và dư dả. Khi còn là một đứa trẻ đôi lúc tôi tưởng tượng mình là một anh thợ sơn, và sẽ sơn lại tất cả những căn nhà này, nhưng nếu như thành phố mất đi tấm vải liệm màu đen trắng của nó thì thật là đau buồn. Vào mùa hè, khi những căn nhà này được sưởi nắng đến khô đi, hanh ra, gỗ của chúng có màu nâu sậm, màu cà phê như phấn, chúng ta sẽ có cảm tưởng chúng có thể bắt lửa bất cứ lúc nào; và nếu đưa lên mũi ngửi, thì lại nghe ra mùi ẩm và mốc, hậu quả của bao mùa mưa, bão, tuyết và những ngày đông dài, lạnh giá. Cũng giống hệt như những căn nhà gỗ cổ lỗ của người Hồi giáo mà nền Cộng hòa cấm không được sử dụng làm nơi cầu nguyện, giờ đây gần như bị bỏ hoang, chỉ còn hấp dẫn đám trẻ bụi đời, những hồn ma, và những tay chuyên săn đồ cổ. Chúng khêu dậy ở trong tôi nỗi sợ sệt, niềm âu lo, và sự tò mò, cùng một mức độ như nhau; và khi kiễng chân lên nhìn qua bức tường đổ, quá đám cây ẩm ướt, tới những cửa sổ bể; tôi rùng mình ớn lạnh hết cả người.
Ôm ấp mãi cái linh hồn đen trắng của thành phố; tôi đâm ra bị quyến rũ bởi những nét vẽ bằng than của các nhà du lịch Tây phương lưu tâm, tò mò hơn về Đông phương như Le Corbusier hay bất cứ một cuốn sách nào lấy Istanbul làm nền với những minh họa đen trắng (suốt thời thơ ấu, tôi chờ đợi trong vô vọng nhà hoạt họa Hergé cho nhân vật Tintin của ông phiêu du một chuyến tới Istanbul; khi bộ phim Tintin đầu tiên được quay ở đây vào năm 1962, một nhà xuất bản lậu bèn cho ra một cuốn truyện tranh đen trắng, với những bức vẽ của một họa sĩ địa phưong, và đặt tên là Tintin ở Istanbul. Hổ lốn trong đó là những cảnh mô phỏng từ cuốn phim dở ẹt nói trên, và những cuộc phiêu lưu khác của Tintin.) Cũng vậy, tôi đâm ra mê những tờ nhật báo cũ; và cứ mỗi lần đọc được ở trong đó về một vụ sát nhân, một vụ tự tử, hay một vụ ăn cướp bị đổ bể là tôi lại cảm thấy sướng mê tơi, vì tìm lại được cảm giác sợ hãi hổi còn nhỏ.
Có những nơi – ở Tepebaşı, Galata, Patih, và Zeyrek, một vài làng xóm dọc theo vịnh Bosphorus, những con phố nhỏ ở Üsküdar – vẫn còn rõ rệt cái cảnh sắc mù mờ đen trắng mà tôi cố gắng diễn tả. Vào những buổi sáng mù sương khói, vào những đêm mưa gió bạn có thể nhìn thấy cái linh hồn đen trắng đó của thành phố trên những vòm thánh đường Hồi giáo, nơi hải âu làm tổ; bạn cũng nhìn thấy nó, trong làn không khí bị ô nhiễm, trong những chùm bổ hóng bay lên từ ông lò sưởi, những lon, hộp gỉ sét, những công viên, những khu vườn để trống trơn, bị bỏ bê vào những ngày đông, và trong những đám người ngại ngần trên con đường trở về nhà, lặn lội trong bùn và tuyết vào các buổi chiều mùa đông. Chúng là những nỗi vui buồn bã của Istanbul màu đen trắng: những máy nước hư hỏng chẳng còn hoạt động từ bao thế kỷ; những khu nghèo nàn với các thánh đường bị bỏ quên; những đám học sinh ào tới với áo đồng phục đen viền cổ trắng; những chiếc xe tải chở than cổ lỗ, mệt mỏi, bùn phủ kín; những tiệm tạp hóa nhỏ xám xịt theo năm tháng, theo lớp bụi dày và mớ khách ngày một thưa dần – những tiệm nhỏ bé, xập xệ nơi tụ tập của những người thất nghiệp thảm hại; những cây anh thảo đen hơn cả dầu hôi; những nghĩa địa cổ nằm rải rác trên đồi cao; những bức tường thành phố xiêu vẹo, đổ nát, giống như các con phố dựng lên theo chiều thăng đứng; những lối vô rạp chiếu bóng chỉ trong chốc lát là trông hệt nhau; những tiệm bán bánh; đám diều hâu bán nhật trình trên vỉa hè; những kẻ say rượu lang thang trong đêm khuya; những ngọn đèn đường vàng vọt; những con tàu lên xuống con vịnh Bosphorus, và những đám khói tỏa ra từ các ống khói tàu; thành phố trong tấm mền tuyết trắng.
Không thể nào nhớ lại thời thơ ấu của tôi nếu không có tấm mền tuyết trắng đó. Một số trẻ con chỉ chực mong chờ mùa hè bắt đầu, còn tôi thì chỉ chực mong chờ tuyết rơi – không phải để ra ngoài đùa nghịch với tuyết, mà bởi vì tuyết xuống là thành phố đẹp vô cùng, tuyết làm cho thành phố trở thành mới, nó không chỉ phủ lấp bùn bụi, sự bẩn thỉu, dơ dáy, sự cùng cực, điêu tàn, sự lơ là buông thả, bỏ mặc, mà còn tạo cho mọi con phố mọi cái nhìn một yếu tố của sự ngạc nhiên, một bầu không khí tuyệt diệu của một thảm họa sắp xảy ra. Hằng năm tuyết rơi chừng ba đến năm ngày, và tuyết tụ trên mặt đất chừng một tuần tới mười ngày, nhưng nó luôn ra đòn một cách hoàn toàn bất ngờ, lần nào thành phố cũng đón chào tuyết rơi như là lần đầu tiên: Những con phố nhỏ sẽ bị ngập kín, rồi tới những đường chính, đoàn người sẽ nối đuôi đứng đợi tại tiệm bánh, y hệt thời kỳ chiến tranh hoặc thiên tai thảm họa tầm cỡ quốc gia. Điều tôi mê mẩn nhất ở tuyết là nó đủ sức bắt tất cả mọi người ra khỏi chính họ, để hành động như tất cả là một; bị cắt đứt ra khỏi thế giới, chúng tôi mắc cạn cùng nhau. Vào những ngày tuyết rơi, Istanbul cảm thấy nó như là một tiền đồn, nhưng chính cái việc nhìn ngắm số phận chung làm chúng tôi gần gũi với quá khứ tuyệt vời ngày nào.
Trong những sự kiện khí tượng gắn kết mọi người với nhau khác thường nhất mà mọi người nhiều năm sau còn nhắc mãi, có một lần khí hậu vùng cực xuống thấp khiến Hắc Hải đóng băng, và một vài tảng băng lãng đãng trôi từ Danube tới vịnh Bosphorus. Đúng là một sự kiện khác thường xảy ra đối với một nơi được gọi là thành phố Địa Trung Hải, và người ta sẽ còn nói mãi về nó với một niềm vui con trẻ.
Nhìn thành phố qua màu đen trắng của nó là nhìn nó qua vẻ xám xịt của lịch sử: vẻ gỉ sét của cái già nua, cái nhạt nhòa, dần dà chẳng còn có ý nghĩ gì cho phần còn lại của thế giới nữa. Ngay cả vào thời rực rỡ nhất của Ottoman thì kiến trúc của nó vẫn có cái vẻ giản đơn khiêm tốn gợi lên sự ủ ê thời tận cùng đế chế, một sự quy thuận đau đớn dưới cái nhìn chằm chằm ra vẻ khinh khi của Âu châu và sự nghèo đói từ đời thuở nào cứ thể kéo dài giống như một căn bịnh vô phương cứu chữa. Chính tình cảm nhẫn nhục đó đã nuôi dưỡng phần linh hồn soi mãi vào bên trong của Istanbul. Muốn tóm được cái linh hồn đen trắng của thành phố, muốn ngắm nhìn màn sương mù ngồi xổm lên trên nó, muốn thở ở trong nỗi buồn mà những cư dân của nó ôm khư khư như số mệnh chung của họ, bạn chỉ cần bay từ một thành phố Tây phương giàu có, và cứ nhắm những con phố đông đúc mà hướng tới; nếu là mùa đông, bạn chỉ cần đi lên cầu Galata, và sẽ thấy một lũ người cùng mặc một thứ quần áo nhợt nhạt, buồn bã, giống như những bóng ma. Người Istanbul cùng thời với tôi rất ít khi xỏ vào người thứ quần áo sặc sỡ, màu đỏ, màu vàng tươi, hay màu xanh, mà những tổ tiên lắm tiền nhiều của và ngạo nghễ của họ từng mặc; với du khách ngoại quốc, điều này giống như thể họ cố tình làm như vậy, xuất phát từ vấn đề đạo đức. Tất nhiên chẳng có đạo đức nào như thế – ở trong cái sự u tối đậm đặc của họ có một lời gợi ý về tính khiêm tốn. Đó là cách bạn ăn mặc ở một thành phố có một màu đen trắng, họ như muốn nói với du khách người nước ngoài như thế; đó là cách bạn cùng u sầu buồn bã với một thành phố đã ở vào cảnh đi xuống từ một trăm năm mươi năm nay.
Và những du khách Tây phương thế kỷ mười chín, từ Lamartine và Gérard de Nerval tới Mark Twain, tất cả đều phụ họa thêm vào nỗi bi hài, ấy là vì họ miêu tả lũ chó lang thang trên những đường phố Istanbul, với cùng một sự hào hứng như nhau, và như thế, lại càng nuôi dưỡng thêm vào cái tình cảm đen trắng của tôi về thành phố của mình. Tất cả bọn chúng đều trông thật giống nhau, cùng lớp lông đồng một thứ màu thật khó gọi tên – một màu nằm đâu đó giữa xám và tro, trộn lẫn với nhau để ra một thứ màu không hề có màu. Khi quân đội làm một cú đảo chính, chẳng chóng thì chầy, một ông tướng sẽ nhắc tới sự đe dọa của chó; nhà nước, nhà trường thực thi bao nhiêu là chiến dịch nhằm xóa sạch hình ảnh chó trên đường phố, nhưng chúng vẫn cứ nhởn nhơ dạo chơi. Dù cho chúng đáng sợ như vậy, rồi lại còn tập hợp nhau lại để thách thức nhà nước, tôi vẫn không thể không thương hại những con vật mất mát, điên khùng cứ cố bám chặt lấy lãnh thổ của chúng ấy.
Chúng tôi nhìn thành phố của mình trong màu đen và trắng, một phần là còn do chúng tôi biết nó như vậy qua các bức tranh của những họa sĩ Tây phương; cái màu chiến thắng vinh quang của quá khứ chưa từng bao giờ được những nhà họa sĩ địa phương để mắt tới. Chẳng hề có một thứ tranh họa Ottoman nào có thể dễ dàng xứng hợp với cái nhìn thẩm mỹ của chúng tôi. Chẳng có một mẩu văn, mẩu vẽ nào trong thế giới ngày hôm nay dạy chúng tôi làm thế nào thích thú nghệ thuật Ottoman, hay nghệ thuật cổ điển Ba Tư là nơi nó thoát thai. Các nhà tiểu họa Ottoman lấy hứng khỏi từ những người Ba Tư. Cũng như những thi sĩ Đi văng[4] ca ngợi và yêu mến thành phố của họ, không như một nơi chốn thực mà như một từ, như nhà vẽ tranh trang hoàng Nasuh tay chơi Polo, họ coi thành phố như một tấm bản đồ, hay như một đám rước diễn ra trước mặt họ. Ngay trong những cuốn sách nghi lễ của họ, họ cũng chỉ chú trọng tới đám nô lệ, thần dân và những của cải huy hoàng của sultan; thành phố không được coi như một nơi chốn để cho con người sinh sống ăn ở, mà là như một phòng tranh của nhà nước, được nhìn qua một ống kính cố định.
Bởi vậy, khi các tạp chí hay sách giáo khoa cần một hình ảnh về thành phố Istanbul cổ, họ bèn sử dụng những tranh họa đen trắng của các nhà du lịch hay nghệ sĩ Tây phương. Những người cùng thời của tôi không mấy ưa ngắm một Istanbul vương giả qua những bức tranh bột màu thật chi li, tinh tế của Antoine-Ignace Melling, tôi sẽ viết nhiều về ông hơn ở các đoạn sau; chấp nhận số phận, tìm kiếm sự tiện lợi, họ thích nhìn quá khứ của mình, được tái sản xuất thật dễ dàng, bằng một thứ màu đơn sắc. Bởi vì, một khi đưa mắt nhìn một hình ảnh không màu, họ liền thấy nỗi buồn của mình đã được xác nhận.
Khi tôi còn nhỏ, đêm thật là đẹp vì thành phố; trên con đường nghèo nàn hóa của no, tự chui sâu vào trong chính mình, được bao phủ bởi một bầu khí quyển xáo động và nặng nề – giống như tuyết – thấm đẫm chất thi ca. Có rất ít tòa nhà cao vào cái thời bé con của tôi; và khi màn đêm phủ xuống, nó xóa nhòa chiều thứ ba của những ngôi nhà, đám cây, những rạp chiếu bóng ngoài trời, những bao lơn, những khung cửa sổ mở toang, ban cho những tòa nhà vặn vẹo những đường phố ngoằn ngoèo và những ngọn đồi lắc lư của thành phố một vẻ duyên dáng màu đen. Tôi thật mê một bức khắc gỗ trong một cuốn sách du hý của Thomas Allom năm 1839, trong đó đêm Istanbul mang nặng ý ẩn dụ. Trong khi miêu tả bóng tối như là nguồn của cái cái ác, bức tranh tóm ngay lấy điều mà một số người gọi là "văn hóa trăng" của Istanbul. Như rất nhiều người khác ùa ra bờ nước để thưởng thức các nghi lễ đơn giản của những đêm có trăng, một con trăng tròn cứu thành phố ra khỏi sự u tối toàn diện, ánh trăng nô đùa trên mặt nước, nhợt nhạt vào những đêm nửa con trăng, hay là (như ở đây) lấp ló sau những đám mây – tên sát nhân vừa mới tắt ánh sáng để không ai nhìn thấy tội ác của hắn.
Đêm, cái nguồn cơn bí ẩn của cái ác đã khiến thành phố có một bầu không khí của giấc mơ và truyền thuyết, càng nhấn mạnh thêm dáng vẻ đen trắng của Istanbul. Không phải chỉ những nhà du lịch Tây phương sử dụng ngôn ngữ đêm để miêu tả các bí mật không làm sao thâm nhập được của thành phố. Nếu họ biết được điều gì về những mưu đồ ở bên trong lâu đài, hoàng cung, ấy là vì cư dân của Istanbul mê thì thào, về những cô gái hậu cung bị sát hại, tử thi của họ được lén lút tuồn ra khỏi những bức tường lâu đài, dưới sự đồng lõa của bóng tối, và được chở bằng một chiếc thuyền tới tận Mũi Vàng[5] để liệng xuống biển.
Câu chuyện huyền hoặc về vụ sát hại Salacak (xảy ra vào năm 1958, trước khi tôi biết đọc, nhưng vì nó gây một cơn kinh hồn bạt vía trong gia đình – và, thực sự, trong bất cứ một gia đình nào của thành phố – thành thử tôi thuộc lòng từng chi tiết), cũng đại loại như những câu chuyện kể trên; câu chuyện khủng khiếp này lại càng thêm mắm thêm muối cho những cơn hoang tưởng đen trắng của tôi về thời gian của đêm, những con thuyền, những con nước của vịnh Bosphorus và cho tới giờ vẫn còn tạo chất liệu cho những cơn ác mộng của tôi. Tên ác nhân, thoạt tiên được cha mẹ tôi miêu tả, là một người thuyền chài nghèo khó, nhưngvào thời ấy, cả thành phố biến anh ta thành một thứ ác quỷ dân gian. Đồng ý chở một người phụ nữ và những đứa con của bà trên chiếc thuyền của mình ra khỏi thành phố, tên ác nhân đã hãm hiếp bà mẹ và ném những đứa nhỏ xuống biển. Báo chí đặt cho tên ác nhân này là "Con Quỷ Salacak" và mẹ tôi, quá sợ là còn có một tên khác đang lẩn lút đâu đó, trong số những người thuyền chài quăng lưới gần nơi căn nhà mùa hè của chúng tôi ở Heybeliada, cấm hai anh em tôi ra ngoài chơi, ngay cả là ở trong khu vườn của căn nhà. Trong nhũng cơn ác mộng, tôi có thể nhìn thấy người thuyền chài quăng từng đứa trẻ xuống lớp sóng biển, và đám trẻ cố lấy móng tay bấu víu vào thuyền; tôi nghe tiếng bà mẹ la hét, và cái bóng đen ma quái của người thuyền chài, dùng những cái bơi thuyền đập lên đầu những đứa trẻ và bà mẹ của chúng. Ngay cả bây giờ, mỗi lần đọc báo chí Istanbul về những vụ sát nhân (một việc tôi thấy đặc biệt thích thú), tôi vẫn nhìn thấy những cảnh tượng trên trong cái màu đen trắng của nó.
Chú thích:
[4] Dưới tên gọi “Đi văng”, đây là một truyền thống thơ ca dòng chính quan trọng của Thổ Nhĩ Kỳ.
[5] Địa danh lịch sử, chỉ một con rạch của Bosphorus, chia đôi thành phố Istanbul. Nơi này từng là địa diểm trú thuyền quan trọng của nhiều nước. Cắt Bosphorus tại cửa biển đổ vào Biển Marmara, Mũi Vàng góp phần tạo nên bán đảo có khu thành phố cổ của Istanbul.