← Quay lại trang sách

Chương 8 Mẹ tôi, cha tôi, và những lần vắng mặt-

Cha tôi thường đi xa. Nhiều tháng liền không thấy ông đâu. Lạ một điều, chúng tôi chỉ để ý đến chuyện này khi ông đã vắng mặt được ít lâu. Như thể chúng tôi quá quen với điều này – thì cũng giống như là bạn có một chiếc xe đạp ít khi lôi ra đi, thế rồi nó bị mất, hay bị ăn trộm hoặc bạn có một anh bạn học không trở lại lớp, và đến khi bạn nhớ ra chuyện này thì việc đã rồi, và bạn không còn cảm thấy nhớ nhung hay đau đớn chi nữa. Chẳng có ai giải thích cho chúng tôi tại sao mà ông vắng mặt lâu như thế, và cũng chẳng có ai nói cho chúng tôi biết khi nào thì ông sẽ trở về nhà với chúng tôi. Chúng tôi cũng không nóng ruột hỏi han; việc này có thể là do chúng tôi sống trong một căn hộ lớn, trong nhà thì có nhiều người, nào chú nào bác, nào cô nào dì, nào ông nào bà, nào đầu bếp, người giúp việc, thành thử thật dễ dàng chấp nhận sự vắng mặt và bỏ qua chuyện hỏi han về sự vắng mặt của ông, cũng thật dễ dàng quên luôn chuyện ông không có nhà. Chỉ những lần, khi bất ngờ trong vòng tay ấm áp của cô người làm, Esma Harum, hay khi ngưòi làm bếp của mẹ tôi, Bekir, tỏ ra quá tử tế khi nghe chúng tôi nói một điều chi, hay khi ông chú Aydin quá lăng xăng trên chiếc xe 52 Dodge trong một buổi sáng Chủ nhật đi Bosphorus, chỉ vào những lúc đó, chúng tôi mới cảm thấy buồn buồn, và hiểu lờ mờ, có một cái gì đó thua thiệt.

Cũng vậy, đôi khi tôi cảm thấy có điều gì đó không ổn, khi mẹ tôi dùng hết buổi sáng của bà, nói điện thoại không dứt với những bà cô của tôi, hay bạn bè, hay bà mẹ ruột của bà. Vào những lúc ấy, mẹ tôi sẽ mặc chiếc áo dài màu kem điểm những bông cẩm chướng; bà ngồi bắt hai chân vào nhau, chiếc áo dài sẽ rơi xuống sàn nhà thành từng nếp, và nhìn cảnh này, tôi thấy thật bối rối; tôi sẽ nhìn thấy chiêc áo ngủ, cũng như làn da xinh đẹp của bà, và tôi sẽ nhìn thấy cái cổ xinh xắn của mẹ mình, và tôi muốn ngồi lên lòng bà trườn mãi lên trên, tới khoảng giữa mớ tóc, cổ và ngực của bà. Sau này, chính bà bực bội mà nhận xét, sau một cuộc cãi lý căng thẳng với cha tôi, rằng tôi là cái đồ thích thú thưởng thức thảm họa giáng xuống gia đình mỗi lần cha mẹ gay gắt cãi lộn.

Trong lúc chờ mẹ chú ý đến mình, tôi sẽ ngồi nơi bàn trang điểm của bà và nghịch ngợm những chai nước thơm, hộp phấn, thỏi son, nước sơn móng tay, nước hoa cologne, dầu hạnh đào; tôi sẽ lục lọi mấy ngăn kéo và lôi ra đủ thứ nhíp, kéo, đồ cắt móng tay, móng chân, chì tô, lông mày, lược, bàn chải tóc, và đủ thứ dụng cụ đầu nhọn khác; tôi nhìn mấy tấm hình tôi và anh tôi khi còn nhỏ tí mà mẹ tôi luồn xuống bên dưới mặt tấm kính để trên bàn. Một bức chụp tôi đang ngồi trên một cái ghế cao trong khi mẹ tôi, cũng mặc chiếc áo dài như lúc này, đang dùng muỗng đút đồ ăn cho tôi; cả hai chúng tôi đều cười, trông giống như những tấm hình quảng cáo và khi nhìn tấm hình, tôi cảm thấy bực, bởi vì chẳng ai để ý gì đến tiếng la khóc hạnh phúc của tôi.

Khi nào buồn chán quá, tôi bèn chơi một trò chơi rất giống với cái trò sau này tôi sẽ lặp lại trong những cuốn tiểu thuyết của tôi. Tôi dồn về phía giữa bàn trang điểm tất cả những món đồ ở hai bên của chiếc gương trang điểm – nào chai, lọ, bàn chải đánh răng, chiếc bóp bằng bạc trang điểm những bông hoa, bao giờ cũng khóa, và tôi chưa từng thấy mẹ tôi mở ra một lần nào – rồi tôi đưa cái đầu của mình vào đúng ngay giữa tấm gương, và cùng lúc, mở hai cánh gương hai bên, và thế là, bất thình lình hiện ra hàng nghìn tên Orhan lắc lư, động đậy ở một nơi tưởng chừng như vô tận, sâu thẳm, lạnh lẽo, ở đáy tấm gương màu sắc. Khi nhìn vào những hình ảnh phản chiếu gần tôi nhất, lớn nhất, phần đầu phía sau của tôi làm tôi ngạc nhiên, nhưng trước hết, là hai cái tai, chúng cuộn tròn thành một điểm ở phía sau, và một bên tai thì lòi ra, giống như của cha tôi. Thú vị nhất là phía đằng sau cổ, nó làm cho tôi có cảm tưởng thân mình của tôi là một kẻ xa lạ mà tôi mang theo cùng với tôi – chỉ nội như vậy là tôi phát ớn lên rồi. Bị tóm giữ ở giữa ba tấm gương, hàng trăm tên Orhan thay đổi mỗi lần 1 chuyên vị trí các khung gương, cho dù thật nhẹ nhàng, và, mặc dù mỗi lần di chuyển như vậy khác hẳn nhau tôi thật hãnh diện khi nhận ra dù di chuyển cỡ nào thì chúng vẫn như rập khuôn với từng cử chỉ của tôi. Và tôi sẽ thử đủ kiểu cử chỉ, dáng điệu cho tới khi chắc chắn chúng rập khuôn y chang, muôn lần như một. Thỉnh thoảng tôi chú ý nhìn vào màu xanh bất tận của gương, cố tóm tên Orhan ở thật xa tít mù. Đôi khi, một vài trong số những tên rập khuôn tôi không giơ tay múa chân cùng một lúc như tôi mà lại sững lại một chút rồi mới bắt chước. Đáng sợ nhất, là vào lúc tôi nhăn mặt đủ các điệu bộ – phồng má, nhướng mày lè lưỡi, hoặc chú tâm vào tám trong số hàng trăm Orhan ở góc gương – và rồi (tôi cử động tay mà không để ý), tôi nhìn thấy điều mà tôi nghĩ là một nhóm nhỏ Orhan ở rất xa đang tự động giơ chân múa tay với nhau.

Làm mất bản thân bằng những hình ảnh phản chiếu như thể biến thành Trò Biến mất, và có lẽ tôi chơi trò này là để sửa soạn cho mình điều khiếp đảm nhất. Mặc dù không biết mẹ tôi nói gì trong điện thoại, cha tôi lúc đó đang ở đâu và khi nào thì trở về, tôi hiểu ra một điều, một ngày nào sẽ đến lượt mẹ tôi cũng biến mất.

Và một đôi khi, bà biến mất thật. Nhưng khi bà biến mất, người ta cho chúng tôi một lý do, đại loại, “Mẹ bịnh, đang ở nhà cô Neriman.” Tôi hồi đáp những lời giải thích đó cùng một cách như với những hình ảnh của tôi phản chiếu qua các tâm gương: Biết chúng chỉ là những ảo ảnh, tôi vẫn cứ chấp nhận, tự cho phép mình bị lừa gạt. Vài ngày sẽ trôi qua trước khi chúng tôi được giao phó cho người làm bêp Bekir và anh người làm Ismail. Với họ, chúng tôi sẽ dùng thuyền, và xe buýt đi suốt thành phố lstanbul – tới bờ phía bên Á châu của Bosphorus, đến nhà bà con ở Erenkoy, hay những bà con khác ở thành phố Istinye của vùng Bosphorus, để gặp mẹ tôi. Những chuyến đi không buồn tẻ, mà là những cuộc phiêu lưu. Vì có ông anh đi cùng, tôi nghĩ mình có thể trông vào anh khi phải đối đầu với các hiểm nguy. Những căn nhà và yali mà chúng tôi đi thăm, chủ nhà đều là bà con xa gần của mẹ tôi; sau khi mấy ông mấy bà họ hàng già cả tóc bạc phơ vừa âu yếm vừa đáng sợ ôm hôn và chỉ cho mấy đứa cháu đồ này món kia hay ho kỳ lạ ở trong nhà – một cái phong vũ biểu của Đức mà tôi đã có lần nghĩ tất cả những kẻ chạy theo mốt sống của Tây phương ở Istanbul đều có (một ông chồng và bà vợ mặc chiếc váy theo kiểu Bavaria sẽ rời nhà và lại trở về tùy theo thời tiết), hay một cái đồng hồ, với một con chim cúc cu đậu trên một cái sào nhảy ra rồi lại nhảy ngay về chuồng, cứ nửa giờ một lần, hay là một con chim yến bằng xương bằng thịt nhảy nhót trong lồng để đáp lời con chim giả kia, bà con của nó – sau đó, chúng tôi được dẫn vô căn phòng của mẹ tôi.

Choáng mắt với mặt biển bao la sáng rực bên ngoài cửa sổ và vẻ đẹp của ánh sáng (có lẽ đây là lý do khiến tôi mê những cửa sổ nhìn về hướng Nam trong tranh Matisse), chúng tôi sẽ buồn rầu mà nhớ ra rằng mẹ đã rời bỏ chúng tôi để đến cái nơi đẹp đẽ và lạ lùng này, nhưng chúng tôi cảm thấy yên tâm trở lại ngay khi nhìn thấy các món đồ thân thuộc trên bàn trang điểm – những cái nhíp, những lọ nước hoa, cái bàn chải tóc cán đánh véc ni, và mùi vị ngọt ngào không gì sánh được từ người mẹ tỏa ra căn phòng. Tôi nhớ từng chi tiết: bà ôm từng đứa để lên lòng và ôm ấp chúng tôi một cách thật là ấm áp như thế nào, bà căn dặn ông anh của tôi phải nói năng và cư xử ra sao, phải tìm đâu mới thấy những đồ dùng để lần tới mang đến cho bà – mẹ tôi rất thích căn dặn, chỉ bảo con cái. Khi bà làm những điều đó, tôi nhìn ra cửa sổ, làm như không nghe, đợi đến lượt mình được bà bế vào lòng.

Một lần, trong khi mẹ tôi vắng nhà, cha tôi đem về một cô bảo mẫu. Cô ta thấp, da nhợt nhạt, thật khó mà nói cô xinh đẹp, tròn xoe, cười luôn miệng. Khi cô chăm sóc cho chúng tôi, cô nói bằng một cái giọng khôn ngoan mà có vẻ như cô rất hãnh diện vì có được, rằng chúng tôi phải cư xử đúng như cô ta; không như những cô bảo mẫu khác ở trong nhà, cô này là người Thổ. Điều này làm chúng tôi thất vọng, và chúng tôi không bao giờ mặn mà với cô. Những cô bảo mẫu mà chúng tôi biết phần lớn là người Đức theo đạo tin lành, cô này chẳng có tí quyền uy nào đối với chúng tôi; khi chúng tôi đánh lộn, cô nói: “Hãy ngoan ngoãn, và yên lặng”, và khi chúng tôi bắt chước cô trước mặt cha tôi, ông bật cười, và chẳng bao lâu cô cũng biến mất.

Nhiều năm sau, trong những lần biến mất của cha chúng tôi, khi hai anh em tôi đánh lộn đến chết bỏ, và mẹ tôi không chịu nổi, bà nói “Tao đi đây” hay “Tao lao đầu ra ngoài cửa sổ chết cho rồi!” (một lần bà làm như thiệt, thò một chân ra ngoài cửa sổ) – cũng chẳng đi đến đâu. Nhưng mỗi khi bà nói, “Vậy thì để bố mày lấy con mụ đàn bà đó làm vợ!” thì ứng cử viên cho bà mẹ mới mà tôi nghĩ đến lại không phải là một trong những người đàn bà mẹ nhắc đến tên trong những lần giận dữ, mà là cô bảo mẫu mới, da xanh nhợt, người tròn xoe, thật lịch sự mà ngơ ngác đó.

Do chúng tôi cùng sống trong một tòa nhà, cho nên những bi hài kịch ấy xảy ra như thể trên một sàn diễn nho nhỏ, và bởi vì (sau này tôi sẽ nghĩ, mọi gia đình thì đều như vậy) chúng tôi gần như lúc nào cũng nói về cùng những chuyện, và ăn cùng những món ăn, ngay cả những lời cãi cọ cũng thật buồn chán (ngày nào cũng như ngày nào, sống theo thói quen đúng là nguồn của mọi hạnh phúc, là sự bảo đảm của nó và cũng là cái chết của nó!), nên tôi hân hoan hứng khởi với những sự biến mất bất thình lình, chúng giống như là một hình thức giải tỏa, thoát ra khỏi lời nguyền khủng khiếp của sự buồn chán; như những tấm gương của mẹ tôi, chúng vui nhộn, nhưng là những bông hoa tẩm thuổc độc, mở đường cho tôi vào một vũ trụ khác. Bởi vì chúng dẫn tôi tới một chốn u tôi làm tôi nhớ ra chính mình và hoàn trả cho tôi sự cô đơn mà tôi cố quên, thành thử tôi nhỏ cho chúng vài giọt nước mắt.

Hầu hết những cuộc cãi lộn xảy ra trong bữa ăn. Tuy nhiên, những năm sau, vì vấn đề tiện lợi, chúng thưòng nổ ra trên chiếc xe Opel đời 1959 của cha tôi, bởi với những người tham gia cãi cọ, rời cái bàn ăn thì dễ dàng hơn nhiều so với rời một cái xe đang chạy nhanh. Đôi khi, nếu bắt đầu một chuyến đi đã được toan tính từ nhiều ngày, hay nếu chúng tôi vừa mới ra khỏi nhà để chạy bon bon dọc theo Bosphorus, một cuộc cãi lộn có thể bùng nổ, chỉ vài phút sau khi ra khỏi nhà. Khi đó anh tôi và tôi có thể đánh cược với nhau. Liệu có thể nào sau khi vượt qua cái cầu thứ nhất, hay là sau tiệm xăng đầu tiên, cha tôi sẽ thắng xe bất thình lình, làm một cú quay ngược đầu xe trở lại, và (giống như một vị thuyền trưởng nóng tính mang hàng về vứt trả lại ở chỗ ban đầu) về đến lề đường trước nhà, tống cả gia đình ra khỏi xe, và sau đó, người và xe cùng dọt?

Một cuộc cãi lộn như vậy, đã lâu lắm rồi, có ảnh hưởng sâu đậm lên chúng tôi, có lẽ là do tính thi ca lớn lao của nó. Một buổi tối, trong giờ ăn tại căn nhà mùa hè của chúng tôi ở Heybeliada, cha mẹ tôi cùng rời bàn ăn (tôi thích thế; vì như vậy là tôi có thể ăn uống theo kiểu của tôi chứ không phải làm như mẹ dạy). Trong một lúc, cả hai anh em ngồi trưóc bàn chăm chăm nhìn tô xúp, lắng nghe cha mẹ chúng tôi gào thét vào nhau ở tầng trên cùng, và rồi, như bị bản năng xúi giục, cả hai trèo vội cầu thang lên lầu để gặp cha mẹ. (Cũng giống như là, như bị bản năng xúi giục, mà tôi làm cái mở ngoặc đóng ngoặc này, để nói rằng tôi chẳng có một chút thích thú, không một chút nào, khi nhớ lại chuyện này.) Khi mẹ tôi thấy chúng tôi leo lên tính gia nhập cuộc cãi lộn, bà bèn đẩy chúng tôi vào căn phống kế bên và đóng cửa lại. Phòng thì tối, nhưng có một luồng ánh sáng thật mạnh chiếu qua mấy hình vẽ Tân Nghệ Thuật trên mặt kính mở của hai cái cửa rộng kiểu Pháp. Hai anh em tôi ngồi nhìn qua cánh cửa kính mở mở, hai cái bóng của cha mẹ chúng tôi, lúc xáp lại, lúc lùi ra, rồi lại xáp vào nhau, những khi căng thẳng quá, hai cái bóng như nhập lại thành một. Thỉnh thoảng hai cái bóng xung đột dữ dội quá, khiến tấm màn (tức mặt kính mở) rung lên bần bật – cảnh tượng y hệt như lần chúng tôi đi coi kịch bóng Karagöz[12] – và toàn bộ có màu đen trắng.

Chú thích:

[12] Karagöz ( shadow theatre hay “bì ảnh hí”), hình thức kịch phổ biến ở Thổ Nhĩ Kỳ, sử dụng bóng đèn trên tấm màn sáng nhằm tạo cảm giác về sự chuyển động.