← Quay lại trang sách

Chương 10 Hüzün

Hüzün, tiếng Thổ nghĩa là buồn, có gốc Ả Rập; khi xuất hiện trong kinh Koran (ở dạng huzn trong hai câu thơ, và ở dạng hazen trong ba câu khác), nó có nghĩa đúng như trong tiếng Thổ bây giờ. Nhà tiên tri Muhammad, khi nhắc tới năm bà vợ Hatice và ông chú Ebu Talip mất, đã gọi năm đó là Senettul huzn, năm của nỗi buồn; điều này cho thấy hüzün chuyên chở tình cảm mất mát sâu xa về tinh thần. Nhưng những gì đọc được khiến tôi hiểu ra một điều: Nếu hüzün bắt đầu cuộc đời của nó như là một từ để chỉ sự mất mát, và cùng với nó là đau thương, là thổn thức, thì có một bất đồng ý kiên nho nhỏ, mang tính triết học, trong vài thế kỷ tiếp theo sau sự xuất hiện của từ này, trong lịch sử Hồi giáo. Cùng với thời gian, chúng ta nhận ra là có hai hüzün rất khác nhau, và với mỗi hüzün khác nhau đó, là một truyền thống triết học khác hẳn.

Theo truyền thống thứ nhất, chúng ta trải nghiệm hüzün khi quá gắn bó với thế giới trần tục, với những lợi lộc và thú vui vật chất; từ đó mà có hệ lụy, “Nếu bạn chưa quá lậm vào thế giới tạm bợ này, nếu bạn là một người Hồi giáo tốt và chân chính, thì bạn sẽ không để ý gì đến những mất mát trần thế.” Truyền thống thứ nhì, thoát thai từ chủ nghĩa thần bí Sufi, đem đến cho chúng ta một sự hiểu biết tích cực và thông cảm hơn về thế giới, và vị trí của mất mát và đau thương ở cõi đời. Với những người theo chủ nghĩa thần bí Sufi[13], hüzün là nỗi đau tinh thần mà chúng ta cảm thấy, do chúng ta không thể nào gần gũi đủ mức với Đấng Allah, do chúng ta không thể nào làm đủ cho Đấng Allah. Một Sufi chân chính sẽ không để ý đến những quan hoài của thế gian như cái chết, chưa nói đến ba cái thứ linh tinh như của cải, hay sở hữu; người đó đau nỗi đau, đau nỗi trống rống, và đau nỗi bất toàn bởi vì người đó cảm thấy mình chẳng bao giờ có thể gần gụi đủ mức Đấng Allah, bởi vì sự cảm nhận Đấng Allah của người đó chưa đủ sâu sắc. Hon nữa, không phải sự hiện diện, mà là sự thiếu vắng của hüzün, đã là nguồn cơn của mọi chuyện. Chính việc không trải nghiệm thấy hüzün khiến anh ta cảm thấy nó; anh ta đau khổ do anh ta đau khổ chưa đủ, và chính là do lập luận như thế tới tận cùng mà văn hóa Hồi giáo coi trọng hüzün. Nếu hüzün là trung tâm của văn hóa, thơ ca, và cuộc đời thường nhật của Hồi giáo trong hai thế kỷ vừa qua, nếu nó trấn ngự âm nhạc của chúng ta, thì ít nhất ấy là do chúng ta coi nó như là một vinh dự. Nhưng để hiểu hüzün sau cùng nghĩa là gì trong thế kỷ đã qua, để chuyên chở quyền lực kéo dài của nó, nói đến vinh dự mà truyền thống Sufi đó mang lại cho cái từ này là chưa đủ. Để chuyên chở sự quan trọng tinh thần của hüzün ở âm nhạc Istanbul trong một trăm năm qua; để hiểu tại sao hüzün trấn ngự không chỉ phong thái, âm điệu của thơ ca hiện đại Thổ Nhĩ Kỳ, mà còn cả tính biểu tượng cùa nó, và, tại sao, như những biểu tượng lớn lao của thơ ca Đi văng, nó chịu đựng nỗi đau quá liều lượng, nỗi đau bị lạm dụng; để hiểu sự quan trọng trung tâm của hüzün như là quan niệm văn hóa chuyên chở sự thất bại của cõi dương gian, sự chẳng có gì để mà liệt kê, và sự đau khổ tinh thần, thì việc chỉ cố nắm lịch sử của từ này, và vinh dự mà chúng ta choàng cho nó, là chưa đủ. Để hiểu hüzün của Istanbul mãnh liệt như thế nào ở nơi tôi, khi còn là một đứa trẻ, tôi phải miêu tả lịch sử của thành phố tiếp theo sau sự hủy diệt cứa Đế quốc Ottoman, và – quan trọng hơn – cái đường hướng theo đó lịch sử này được phản chiếu ở trong những phong cảnh “đẹp” của thành phố, và trong những con người của nó. Hüzün của Istanbul không phải chỉ là một trạng thái do âm nhạc, thi ca của thành phố gây nên, nó còn là cách nhìn đời, nó mắc míu tới tất cả chúng tôi, không chỉ như một tình trạng tinh thần, mà một tình trạng tâm hồn, ở mức độ tối hậu của nó, theo nghĩa vừa chấp nhận vừa chối bỏ cuộc đời.

Đế khám phá những ý nghĩa mơ hồ của từ hüzün, chúng ta phải trở về với những tư tưởng gia từng coi hüzün không phải như quan niệm thi ca, hay tình trạng được hưởng hồng ân, mà như một căn bệnh. Theo El Kindi, hüzün mắc míu không phải chỉ với sự mất mát, hay cái chết của một người thân thương, mà còn với những tình trạng tâm thẩn có tính bệnh hoạn khác nữa, thí dụ sự giận dữ, tình yêu, thù hận, và nỗi lo sợ không có cơ sở. Ibn Sina, triết gia-bác sĩ cũng nhìn nhận hüzün ở phạm vi rộng như vậy, đó là lý do tại sao ông đề xuất nên chẩn bệnh một thanh niên trong cơn mê cuồng vô vọng bằng cách vừa bắt mạch vừa hỏi tên cô bạn gái của anh ta. Cách tiếp cận vấn đề của những tư tưởng gia cổ điển Hồi giáo này cũng tương tự như trong Giải phẫu học nỗi buồn của Robert Burton, một cuốn sách kỳ lạ nhưng thú vị, xuất hiện vào đầu thế kỷ mười bảy. (Chừng 1.500 trang, khiến tác phẩm lớn lao của Ibn Sina, Fi'l Huzn, xem ra chỉ có vẻ như là một tập sách mỏng.) Giống như Ibn Sina, Burton có một cái nhìn có tính bách khoa về “nỗi đau đen” và liệt kê nỗi sợ chết, tình yêu, sự thất bại, âm mưu, đồ ăn, đồ uống và những hậu quả có thể từ đó mà ra, và danh sách cách chữa trị của ông thì cũng khá dàn trải. Kết hợp y khoa với triết học, ông khuyến cáo độc giả của mình nên tìm kiếm các phương thuốc trị bịnh thông qua trí tuệ, việc làm, sự ẩn nhẫn, đạo hạnh, kỷ luật, và ăn uống điều độ – thật lạ là hai cuốn sách từ hai truyền thống văn hóa khác biệt hẳn nhau như thế mà lại có điểm chung như vậy.

Hüzün, như vậy, nảy sinh từ một “dục vọng đen” như nỗi buổn, “melancholy”; từ nguyên học cho thấy “melancholy” dẫn chiếu tới nền tảng các “thể dịch” lần đầu được quan sát thấy vào thời Aristotle (melaina kole – mật đen), và mang lại cho chúng ta màu sắc thường được gắn kết với cảm xúc này và sự đau đớn kín mít đi kèm. Nhưng tới đây, chúng ta nhận ra sự khác biệt thiết yếu, giữa hai từ này [hüzün và melancholy]. Burton, hãnh diện vì được mắc chứng này, tin rằng nỗi buồn xây con đường đưa đến sự cô đơn hạnh phúc; bởi vì nó củng cố những quyền năng tưởng tượng của ông nên đôi khi nó đươc xác nhận một cách vui vẻ. Chẳng cần biết nỗi buồn là hậu quả hay nguyên do của sự cô đơn, trong cả hai trường hợp, Burton coi sự cô đơn như là trái tim, là cốt yếu của nỗi buồn. Ngược lại, trong khi El Kindi coi hüzün vừa như là một tình trạng huyền bí (thoát thai từ sự bực bội không làm sao trở thành một với Đấng Allah), vừa như là một thứ bệnh, sự cô đơn không được coi như điều kiện mong ước, thậm chí là được chấp nhận. Mối bận tâm chính, cũng giống như ở mọi nhà tư tưởng Hồi giáo cổ điển, là cemaat, cộng đồng tín đồ. Ông phán xét hüzün theo những giá trị của cemaat và đề nghị những liều thuốc trị hướng chúng ta về phía đó; chủ yếu ông coi hüzün như là một kinh nghiệm kỳ cục đối với mục tiêu của cộng đồng.

Điểm khởi đầu của tôi là niềm xúc động mà một đứa bé cảm nhận khi nhìn ra bên ngoài, qua mặt kính cửa sổ mờ hơi nước. Bây giờ chúng ta bắt đầu hiểu hüzün không phải như nỗi buồn của một con người cô đơn, mà là cái tâm trạng u tối mà hàng triệu con người cùng chia sẻ. Điều mà tôi cố giải thích là hüzün của cả một thành phố: thành phố Istanbul.

Trước khi tôi cố gắng vẽ ra thứ tình cảm độc nhất vô nhị này của Istanbul, cái ràng buộc mọi người vào với nhau, chúng ta hãy nhớ lại rằng, cái điều thứ nhất mà một họa sĩ nhắm tới khi vẽ một phong cảnh là làm sao đánh động ở người thưởng ngoạn cùng những tình cảm mà phong cảnh đó đã đánh động người nghệ sĩ. Ý tưởng này vô cùng phổ biến ở giữa thế kỷ mười chín với các nhà Lãng mạn. Khi Baudelaire chỉ ra điều mà tranh Eugène Delacroix tác động lớn nhất đến ông là vẻ buồn của nó, thì ông dùng từ này [melancholy] theo nghĩa hoàn toàn tích cực, như một lời ngợi ca, giống các nhà Lãng mạn và Suy đồi tiếp theo. Sáu năm sau khi Baudelaire viết ra các ý nghĩ về tranh Delacroix (1846), bạn của ông, nhà văn và nhà phê bình Théophile Gautier làm một chuyến tham quan Istanbul. Những điều mà Gautier viết về Istanbul sau đó gây dấu ấn đậm đà lên những nhà văn của thành phố như Yahya Kemal và Tanpinar; bởi vậy, điều đáng nói ở đây là khi Gautier miêu tả một số phong cảnh của thành phố như là một nỗi buồn được đẩy đến cực điểm của chúng, thì đây cũng là một sự ngợi ca.

Nhưng điều mà tôi đang cố gắng diễn tả, không phải nỗi buồn của Istanbul, mà là hüzün, một hüzün mà chúng tôi tự thấy mình được phản chiếu ở trong, một hüzün mà chúng tôi hấp thụ lấy một cách hãnh diện và chia sẻ cho nhau, với tư cách một cộng đồng. Hiểu hüzün này đồng nghĩa với chiêm ngưỡng những cảnh tượng, gọi dậy những hồi ức nơi bản thân thành phố trở thành một minh họa, một yếu tính của hüzün. Tôi đang nói về những chiều tối khi mặt trời vội xuống, về những ông bố trên đường trở về nhà, dưới những ngọn đèn đường ở những con phố nhỏ, tay xách mấy cái túi ni lông; về những thủy thủ buồn ngủ rũ rượi tay xách xô nước lau chùi sàn những chiếc phà già nua nơi bến bờ hoang phế vào giữa mùa đông, một mắt ngó chiếc tivi đen trắng nhỏ ở phía xa; về những ông chủ tiệm sách già ngất ngư từ một cơn khủng hoảng kinh tế này qua cơn kế tiếp, run rẩy chờ suốt buổi một người khách xuất hiện; về mấy ông thợ hớt tóc ca cẩm chả mấy đàn ông chịu cạo râu sau một cơn khủng hoảng kinh tế; về những đứa trẻ chơi banh giữa những chiếc xe trên các phố rải sỏi; về những người phụ nữ choàng khăn, đứng ở trạm xe buýt hoang vắng, tay cầm túm tụm một đống bịch ni lông, chẳng ai nói chuyện với ai, chờ một chuyến xe buýt chẳng bao giờ tới; hoặc về những kho chứa thuyền trống rỗng của các biệt thự già nua ven Bosphorus; về những tiệm trà lèn chật cứng khách ăn mày, những kẻ thất nghiệp; về những tên ma cô đảo lên đảo xuống, vòng qua vòng lại quảng trường lớn nhất thành phố vào những buổi tối mùa hè, mong vớ được một người khách du lịch say rượu cuối cùng; về những tấm ván gãy ở các công viên trống rỗng; về những tiếng còi tàu xuyên qua thềm sương mù; về những tòa nhà bằng gỗ chỗ nào cũng kêu kẽo kẹt, cho dù đó là một biệt thự của pasha, giờ đây lại càng kêu dữ nữa khi trở thành các trụ sở cơ quan thành phố; về những người vợ he hé tấm màn cửa nhìn xuống đường chờ đợi người chồng chẳng khi nào có ý định trở về nhà vào các buổi tối; về những ông già ngồi bán mấy đồ thờ, thánh tượng, dầu thơm ở sân các giáo đường, về những ngàn ngàn cổng chính dẫn vô nhà giống hệt nhau của các khu nhà, mặt tiền của chúng thì bạc phếch vì nắng mưa, vì nước thời gian, vì ô nhiễm, dơ dáy, bụi bặm, hoen gỉ; về những đám đông chạy như ma đuổi, cố làm sao cho kịp chuyến phà vào những chiều tối mùa đông; về những bức tường thành phố, điêu tàn đổ nát kể từ tận cùng Đế chế Byzance; về những chợ búa vắng hoe vào buổi chiều tối; về những ngôi nhà cầu nguyện, các tekke, đổ nát; về những con hải âu bất động trong mưa trên những lan can gỉ sét phủ đầy rêu và vỏ sò vỏ trai; về những sợi khói mỏng như tơ, bay lên từ chiếc ống khói độc nhất của tòa dinh thự một trăm năm tuổi, vào một ngày lạnh nhất trong năm; về đám người câu cá hai bên cầu Galata; về những phòng đọc sách lạnh lẽo ở thư viện; về những ông thợ chụp hình trên đường phố; về hơi người khó chịu ở trong những rạp chiếu phim, ngày nào sang trọng, trần nhà mạ vàng, bây giờ biến thành nơi chuyên chiếu phim con heo, với những người khách mặt mày xấu hổ, ngượng nghịu, len lén bước vô; về những đại lộ nơi chẳng hề có bóng dáng một người phụ nữ nào đi một mình sau khi mặt trời lặn; về đám đông tụ tập nơi những nhà thổ được mở ra dưới sự kiếm soát của nhà nước, vào những ngày nóng, gió, khi những ngọn gió Nam lùa tới; về những cô thiếu nữ xếp hàng ở các cửa hàng bán thịt giảm giá; về những bóng đèn chạy thành các dòng chữ thánh kinh trên những ngọn tháp giáo đường vào những ngày nghỉ, những dòng chữ bị mất nét khi bóng đèn bị cháy; về những bờ tường nham nhở với những tờ quảng cáo; về những chiếc dolmus[14] cũ kỹ mệt mỏi, những chiếc Dodge đời 1950, ở những nước Tây phương đã được đưa vô viện bảo tàng, nhưng ở đây được dùng làm xe taxi sở hữu chung, thở hồng hộc, nhả khói như bễ lò trên những đường nhỏ chật hẹp hay những đại lộ bẩn thỉu; về những chuyến xe buýt chật cứng hành khách; về những thánh đường với những tấm bảng tên và máng xối bằng chì luôn luôn bị mất cắp; về những nghĩa địa thành phố, trông giống như những lối đi tới một thế giới thứ nhì, và về những cây bách ở đó; về thứ ánh sáng mờ mờ mà bạn nhìn thấy vào buổi tối trên những con thuyền chạy từ Kadikoy tới Karakoy; về những trẻ nhỏ trên đường phố, cố bán cùng một bọc khăn tay cho mọi khách bộ hành; về những cột đồng hồ chẳng ai thèm để ý; về những cuốn sách lịch sử, trẻ con đọc trong đó các chiến thắng của Đế quốc Ottoman, và về những trận đòn mà chúng phải nhận khi ở nhà; về những ngày tất cả mọi người phải ở nhà, để thực hiện bổn phận bầu cử, hay kiểm tra dân số; về những ngày có lệnh giới nghiêm bất thần, để tạo điều kiện thuận lợi cho một cuộc ruồng bắt khủng bố, và mọi người ngồi nhà sợ hãi đợi “các viên chức nhà nước”; về những thư độc giả, được nhét vào một góc tờ báo – mà chẳng ai thèm đọc – cho biết giáo đường khu vực, đã hiện diện từ 375 năm, có cơ nguy sụp đổ, vậy mà nhà nước không làm gì hết; về những lối đi ngầm bên dưới phần lớn giao lộ đông người; về những lối đi bắc trên cao nơi mỗi bậc thang lại bị vỡ theo một cách khác nhau; về những cô gái đọc cột báo của Người Chị Lớn Guzin trên tờ Tự do, một trong những nhật báo phổ thông nhất ở Thổ Nhĩ Kỳ; về những người ăn mày bất thình lình xuất hiện ở một nơi bạn không thể nào ngờ và cả những người luôn ngồi cũng chỗ đó, cũng những lời xin xỏ ngày nào cũng như ngày nào; về mùi nước đái sặc sụa xộc thẳng vào mũi bạn tại các đại lộ đông đảo, tại những thuyền, tàu, hành lang, đường hầm; về người đàn ông bán những tấm bưu thiếp tại vẫn một địa điểm trong bốn chục năm qua; về thứ ánh sáng vàng đỏ trên những cửa sổ ở Uskudar vào lúc hoàng hôn; về những giờ phút sớm sủa nhất của buổi sáng, khi mọi người còn đang ngủ ngoại trừ những người đánh cá đang trên đường hướng ra biển; về cái góc của công viên Gulhane, tuy tự gọi là sở thú nhưng chỉ có đúng hai chú dê và ba chú mèo rầu rĩ ở trong chuồng; về những ca sĩ hạng ba gắng hết sức bắt chước các ca sĩ và ngôi sao ca nhạc bình dân Thổ; và cả các ca sĩ hạng nhái nữa; về những học sinh trung học buồn nản trong những lớp học tiếng Anh chẳng bao giờ chấm dứt, sau sáu năm chỉ học được trần hai tiếng “yes” và “no”; về những di dân đợi dài người trên các bên tàu Galata; về những rau trái hư thúi, giấy báo gói hàng, bao bì ni lông, thùng, hộp vứt đầy những chợ trời không còn người một buổi chiều mùa đông; về những phụ nữ xinh đẹp quấn khăn e lệ mặc cả trong các khu chợ trời; về những bà mẹ trẻ một nách ba đứa nhỏ cực nhọc trên đường phố; về tất cả những tàu bè trên biển cùng hú còi một lúc khi thành phố ngưng hoạt động để tưởng nhớ Ataturk vào lúc 9.05 sáng ngày 10 tháng Mười một; về một bậc thềm đá sỏi chìm dần dưới những đợt nhựa đường và sau cùng biến mất; về những đống đá hoa đổ nát trong bao thế kỷ từng là vòi phun nước, bây giờ khô cạn, vòi nước bị mất cắp; về những tòa nhà ở hai bên các đường phố nhỏ thời thơ ấu của tôi, nơi các gia đình trung lưu – bác sĩ, luật sư, thầy giáo, và vợ con của họ – có thói quen ngồi nghe radio buổi tối, bây giờ biến thành những xưởng may, có những cô gái trẻ làm việc suốt đêm để kịp giao hàng, với đồng lương thấp nhất trong thành phố; về phong cảnh Mũi Vàng, từ cầu Galata nhìn về phía Eyup; về những người bán simit trên bến tàu đưa mắt nhìn lơ đãng trong khi đợi khách hàng; về mọi điều gãy đổ, rách nát, quá đát; về những con cò bay về phía Nam từ vùng biển Balkan, Bắc Âu và Tây Âu khi mùa thu tới gần, chúng đưa mắt nhìn xuống toàn thành phố khi bay qua Bosphorus và các đảo trên biển Marmara; về những đám đàn ông trở về nhà, hút thuốc lá lia lịa sau những trận đá banh của đội tuyển quốc gia, cái đội bóng trong thời thơ ấu của tôi chẳng bao giờ ra về mà không đòi cho được sự thất bại nhục nhã: tôi nói về tất cả những cái đó.

Chính là do nhìn vào hüzün, do coi trọng những biểu hiện của nó ở các đường phố, trong những khung cảnh và con người thành phố; mà cuối cùng chúng ta cảm nhận được nó ở khắp mọi nơi. Vào những buổi sáng giá lạnh mùa đông, khi mặt trời bất thình lình rớt xuống vịnh Bosphorus và một làn hơi nước yếu ớt bốc lên khỏi mặt nước, hüzün đậm đặc đến nỗi bạn có thế sờ được nó, thấy nó tràn ra, trải rộng ra, giống như một lớp màng phủ lên những con người và cảnh vật.

Như vậy, có một khoảng cách siêu hình lớn giữa hüzün và nỗi buồn của một cá nhân cô đơn ở Burton; tuy nhiên, có một sự hao hao giữa hüzün và một hình thức khác cùa nỗi buồn, được Claude Lévi-Strauss miêu tả trong Nhiệt đới buồn. Những thành phố nhiệt đới của Levi-Strauss không mấy giống Istanbul, cái thành phố nằm trên vĩ tuyến 41, nơi khí hậu dịu dàng hơn, đất đai thân quen hơn, sự nghèo đói không dến nỗi quá cay nghiệt; nhưng sự mỏng manh cuộc sống cùa con người ở Istanbul, cách mà người ở đó đối xử với nhau và khoảng cách mà họ cảm thấy giữa họ với các trung tâm của Âu châu, khiến những người Tây phương vừa mới lần đầu ghé thăm Istanbul khó mà hiểu được thành phố, và do khó mà hiểu được, họ bèn gán cho thành phố một cái “vẻ bí ẩn” và từ đó, đồng nhất hüzün với cái buồn thiu (tristesse) của Lévi-Strauss.

Buồn thiu, tristesse, không phải nỗi đau ảnh hướng lên một cá nhân cô đơn; hüzün và tristesse, cả hai gợi đến một cảm giác chung, một bầu không khí và một văn hóa được chia sẻ bởi hàng triệu con người. Nhưng những từ và những tình cảm chúng miêu tả thì không đồng nhất, và nếu chúng ta cố rạch ròi, tìm cho được sự khác biệt, thì cũng khó mà nói, rằng, Istanbul giàu có hơn Delhi hay São Paolo. (Nếu bạn đi tới các xóm nghèo, những thành phố và các hình thức của sự nghèo khổ trên thực tế ở đâu cũng như nhau.) Sự khác biệt nằm ở chỗ tại Istanbul những tàn tích của một nền văn minh hiển hách đã qua thật rõ nét ở mọi nơi. Cho dù bị bỏ bê, cho dù hoang phế, cho dù bị bủa vây, những tàn dư của đế chế; không phải chỉ những thánh đường lớn lao, những công trình to lớn, mà ngay cả những cái li ti, nhỏ nhoi còn lại, hiện diện gần như ở bất cứ một nơi nào trong thành phố ở hai bên đường, ở một góc phố – những vòm cung nho nhỏ, những vòi phun nước, những thánh đường trong khu phố – đều tẩm vào người dân sống chung chạ với chúng một nỗi đau trong tim.

Chẳng làm gì có những tàn dư đế chế vĩ đại như vậy ở các đô thị Tây phương, được gìn giữ như là viện bảo tàng lịch sử và được trưng bày một cách hãnh diện. Người dân của Istanbul cứ thế mà sống giữa những điêu tàn, hoang phế. Nhiều nhà văn, nhà du lịch Tây phương coi đây là một điều dễ thương vô chừng. Nhưng đối với những cư dân mẫn cảm, thân quen hơn, các tàn dư đế chế nhắc nhở họ rằng thành phố hiện nay quá nghèo, quá xô bồ, và thật vô phương nếu mơ ước sẽ có một ngày lại hiển hách như xưa, về những mặt giàu sang quyền uy, và văn hóa. Thật khó mà tự hào về những căn nhà xiêu vẹo, đổ nát, bị bỏ bê, dơ dáy bùn và bụi bám đầy, và thật đẹp làm sao, khi còn là một đứa nhỏ, những lần tôi đứng nhìn chúng bị lửa thiêu rụi từng chiếc một.

Trong lúc du lịch Thụy Sĩ, vào năm 1867, Dostoevsky loay hoay cố tìm hiểu tại làm sao mà người dân Geneva lại tự hào đến phát khùng vì thành phố của họ. “Họ đắm đuối nhìn ngay cả những món đồ giản dị, tầm thường nhất, thí dụ, những cây cột trên đường phố như thế chúng là những gì tuyệt vời nhất ở trên cõi đời này,” trong một lá thư, nhà văn sô vanh thù ghét Tây phương thậm tệ viết. Người dân Geneva tự hào về thành phố lịch sử của mình đến nỗi khi có một khách du lịch hỏi thăm đường, dẫu là những chỉ dẫn thông thường đơn giản nhất, họ sẽ nói những lời như “Ngài cứ theo con phố này đi thẳng xuống, qua một đài phun nước bằng đồng duyên dáng, tuyệt vời.” Trong Bedia và Elini xinh đẹp của nhà văn lớn Ahmet Rasim (1865-1932), một cư dân thành phố lstanbul đã ứng xử trong một trường hợp tương tự: “Đi quá hamam[15] Ibrahim Pasha. Đi thêm chút nữa. Ở phía bên phải, nhìn qua khu đổ nát vừa đi qua [khu nhà tắm] bạn sẽ thấy một căn nhà đổ nát.” Những người dân thành phố Istanbul của ngày hôm nay chắc sẽ chẳng vui gì về mọi điều bày ra trưóc những người ngoại quốc ở trên những con phố khốn cùng như vậy.

Một cư dân Istanbul tự tin, lạc quan hơn chắc là sẽ lấy những cửa hàng tạp hóa hay quán cà phê của thành phố làm các điểm mốc, giờ đây thói thường là vậy, vì chúng chính là những kho tàng lớn lao nhất của Istanbul hiện đại. Nhưng chuyến bay lẹ nhất để chạy trốn hüzün của những điêu tàn là vờ đi tất cả những công trình lịch sử, chẳng thèm để ý đến những cái tên của các tòa nhà hay những nét đặc biệt về kiến trúc của chúng. Đối với nhiều cư dân Istanbul, sự nghèo đói và sự ngu dốt đã phục vụ thật tốt cho mục đích này. Lịch sử trở thành một từ không có nghĩa; họ gỡ đá từ những bức tường của thành phố; trộn thêm các thứ vật liệu xây dựng hiện đại để tạo ra những tòa nhà mới, hay là tìm cách tu bổ những tòa nhà cũ bằng bê tông. Và chúng cứ lẵng nhẵng đi theo họ: Khi bỏ bê quá khứ và cắt đứt mối liên hệ với nó, cái hüzün mà họ cảm thấy trong những nỗ lực nhỏ bé và rỗng tếch cùa mình chỉ càng mạnh thêm lên. Hüzün mọc lên từ nỗi đau mà họ cảm thấy trước mọi điều đã mất, và chính điều này lại thúc đẩy họ sáng chế ra những thất bại mới, những cách mới để diễn tả sự khốn cùng của họ.

Cái tristesse mà Lévi-Strauss miêu tả là điều mà một người Tây phương cảm thấy khi anh ta làm một cuộc nghiên cứu những thành phố rộng lớn bị cái nghèo đói hành hạ của vùng nhiệt đới, khi anh ta nhìn ngắm những mớ người hỗn độn và cuộc sống ngổn ngang của họ. Nhưng anh ta không nhìn thành phố qua con mắt của họ. Tristesse hàm ý một con người Tây phương cảm thấy tội lỗi đầy mình và cố xoa dịu nỗi đau, mặc cảm tội lỗi, bằng cách từ chối để cho những sáo mòn và định kiến tô vẽ lên các cảm tưởng của mình. Hüzün, về phần mình, không phải là một tình cảm thuộc về một người quan sát đứng ở bên ngoài, không nhập cuộc. Tuỳ mức độ gia giảm, âm nhạc cổ điển Ottoman, âm nhạc bình dân Thổ Nhĩ Kỳ, đặc biệt nhạc abaresque vốn trở thành bình dân trong thập niên 1980, tất cả đều diễn tả cùng niềm xúc động ấy, mà chúng ta cảm thấy, giữa đau đớn thân thế và nỗi sầu khổ. Và những người Tây phương tới thành phố đã không sao nhận ra điều này. Ngay cả Gérard de Nerval (mà sự buồn bã riêng tư của chính ông đã khiến ông tự tử), đã nói đến chuyện ông hoàn toàn lột xác nhờ những màu sắc, cuộc sống đường phố, sự hung bạo, và những lễ nghi của Istanbul; ông ghi nhận là đã nghe tiếng đàn bà cười lớn trong những nghĩa địa của Istabul. Có thể ông tới Istanbul trước khi thành phố đi vào cơn hồi nhớ, nghĩa là khi Đế quốc Ottoman còn oanh liệt hiển hách, hay có thể bởi vì chính ông ta đang cần trốn thoát nỗi buồn của mình, những điều này đã gợi hứng cho ông trang điểm rất nhiều trang trong Du ngoạn tới Đông phương, với những huyễn tưởng sáng ngời của Đông phương.

Istanbul không mang nỗi buồn hüzün của nó như là “môt thứ bịnh không thuốc chữa” hay một “nỗi đau tự nguyện, mà chúng ta cẩn phải thoát ra khỏi”: Nó mang hüzün là do chọn lựa. Và như thế, nó tìm ra con đường của nó quay trở lại với nỗi buồn của Burton, khi ông cho rằng “Tất cả những thú vui khác thì trổng rỗng/Chẳng chi ngọt ngào bằng nỗi buồn”; ở đây, vang vọng lên sự tự trào, mỉa mai về tầm quan trọng cùa nó trong cuộc sống Istanbul. Cũng thế, hüzün trong thi ca Thổ Nhĩ Kỳ sau khi thành lập nền Cộng hòa cũng diễn tả cùng một nỗi đau đó, một nỗi đau mà chẳng ai muốn trốn chạy, nỗi nhức nhối sau cùng sẽ cứu vớt linh hồn chúng ta và làm cho chúng sâu thẳm thêm lên. Với nhà thơ, hüzün là cái cửa sổ mù khói giữa anh ta và thế giới. Bức màn ảnh mà anh ta phóng chiếu xuống cuộc đời thì đau đớn bi thương, ấy là vì cuộc đời thì bi thương đau đớn. Và cư dân của thành phố Istanbul cũng vậy, họ ẩn nhẫn, chiều theo sự khốn khổ và sự chán chường. Cứ bám như đỉa đói vào cái vinh dự được chủ nghĩa thần bí Sufi ban cho, hüzün không chỉ đem đến cho sự ẩn nhẫn chịu đựng một dáng điệu cao sang, mà còn giải thích giùm cho chọn lựa của họ, cái lựa chọn ôm lấy sự thất bại, sự ngần ngại không dám quyết định một điều chi, sự bại trận, và sự nghèo khổ, một cách thật là triết học, và với một sự kiêu hãnh như thế đó, bằng cách đề xuất hüzün không phải là một giải thoát, một lối ra cho những đau khổ, mất mát, buồn phiền của cuộc đời, mà chính là nghĩa cả của nó. Và đó cũng là nghĩa cả của những vị anh hùng trong phim ảnh Thổ Nhĩ Kỳ thời thơ ấu và trai trẻ của tôi, và cũng còn là những anh hùng trong đời thực của tôi ở cùng một thời kỳ: Tất cả những vị anh hùng đó đều đem đến cho tôi cái cảm tưởng, bởi cái hüzün mà họ ôm ấp trong trái tim của họ ngay từ khi ra đời, cho nên họ không thèm màng tới tiền bạc, thành công, hay là những người đàn bà mà họ yêu. Hüzün không chỉ làm cho những cư dân Istanbul trở nên tê liệt; nó còn đem đến cho họ cái giấy cho phép được tê liệt của thơ ca.

Một tình cảm như thế không thể chi phối các nhân vật như Rastignac của Balzac, một người, với tham vọng điên cuồng, xuất hiện để gọi lên, thậm chí là mang lại vinh quang, tinh thần của thành phố hiện đại. Hüzün của Istanbul không hề gợi nên một cá nhân chường mặt chiến đấu chống lại xã hội; ngược hẳn lại, nó xúi giục một cơn lũ lụt của niềm ước ao đối đầu chống lại những giá trị, và những tập tục của cộng đồng, và khuyến khích chúng ta hãy bằng lòng với tí ít ỏi, vinh danh những đức hạnh của sự hài hòa, đồng điệu, tủi nhục. Hüzün dạy hãy kiên trì chịu đựng bao lần đói khổ, túng thiếu, suy sụp; nó cũng khuyến khích chúng ta đọc đời sống và lịch sử của thành phố theo kiểu ngược lại. Nó cho phép người dân thành phố Istanbul nghĩ về sự thất trận và sự nghèo khổ không phải như một điểm chấm dứt lịch sử, mà là một bắt đầu đáng kính nể, và đã được xác định sẵn, từ trước khi họ ra đời. Như thế, vinh dự, từ hüzün mà ra, có thể trật đường ray. Tuy nhiên, nó thực sự đề nghị Istanbul không ôm ấp hüzün như là một căn bệnh không sao chữa trị, lan rộng ra khắp thành phố hay như một sự nghèo khổ khốn cùng không làm sao thay đổi được, mà cứ phải lê lết chịu đựng, như một nỗi đau, hay như một sự thất bại ngỡ ngàng, sừng sốt, khi được nhìn ngắm, và phán xét, qua hai màu đen và trắng; nó ôm ấp hüzün của nó với vinh dự.

Ngay đầu thập niên 1580, Montaigne đã lập luận rằng chẳng hề có vinh dự trong thứ xúc động mà ông ta gọi là tristesse. (Ông sử dụng từ này, cho dù ông biết bản thân ông là một người “mélancolique”; nhiều năm sau đó, Flaubert cũng sẽ xử sự như Montaigne). Montaigne coi tristesse như là kẻ thù của chủ nghĩa duy lý trông cậy vào bản ngã, vào chính mình, va chủ nghĩa cá nhân. Tristesse, theo cái nhìn của ông, không xứng đáng để viết bằng chữ hoa, bên cạnh những phẩm chất lớn lao khác, Khôn Ngoan, Đức Hạnh, Ý Thức; ông rất tán thành vì người Ý coi từ tristezza là chứa đựng mọi sắc thái của sự điên rồ và bệnh tật, nguồn của bao nhiêu cái ác quỷ tà ma không đếm được.

Nỗi buồn của Montaigne, cũng giống như thái độ của ông khi đối đầu với cái chết, là một điều gì đó mà ông cố gắng kiềm chế, một mình, chẳng cần ai, chỉ bằng trí tuệ của một nhà trí thức sống riêng rẽ, tách biệt, cùng với sách vở của mình. Nhưng, hüzün của Istanbul là một điều cả thành phố cùng cảm thấy và xác nhận, như là một. Cũng giống như các nhân vật ở trong Hòa bình của Tanpinar, cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất đã từng được viết ra về Istanbul: Bởi vì nhiễm hüzün từ lịch sử của thành phố, các nhân vật ở trong bị quật ngã và bị kết án phải thua. Chính hüzün là thứ đã phán rằng không tình yêu nào được phép chấm dứt trong êm ả. Y hệt như trong những phim đen trắng – ngay cả những phim với câu chuyện tình thật cảm động, rất thực – nếu lấy bối cảnh là Istanbul, thì thật rõ ngay từ khởi đầu, hüzün mà cậu con trai mang từ thuở vào đời, sẽ dẫn câu chuyện tới bi thương sầu não.

Trong những phim đen trắng này, hay trong những tác phẩm “nghệ thuật cao” như Hòa bình của Tanpinar, thời điểm chúng ta đồng hóa với nhân vật luôn giống như nhau. Đó là lúc các nhân vật tự rút lui vào trong chính họ, như ốc sên chui vô vỏ, khi họ thất bại không đủ bản lĩnh quyết tâm, hay vụng về lúng túng không làm chủ được tình thế; và vậy là đành quy thuận những điều kiện mà lịch sử và xã hội ban cho họ, đó là lúc chúng ta ôm lấy họ, nhận ra họ, và đó cũng là lúc cả thành phố làm như chúng ta. Cho dù đẹp đẽ cỡ nào, cho dù nổi tiếng ra sao, những cảnh, những xen đen trắng quay trên đường phố Istanbul cũng đều lung linh huyền ảo trong hüzün. Thỉnh thoảng, trong lúc đổi kênh tivi, tình cờ tôi lọt vô nửa chừng một cuốn phim hồi đó, và một ý nghĩ kỳ cục chợt đến với tôi. Khi một nhân vật trong phim lang thang trên con phố rải sỏi, trong xóm nghèo, đưa mắt nhìn lên ánh sáng từ những khung cửa sổ của một căn nhà gỗ và nghĩ tới người yêu dấu, người yêu dấu này lẽ dĩ nhiên sẽ lấy một người khác, hay khi nhân vật chính đầy hãnh diện pha khiêm tốn trả lời một ông chủ hãng giàu có, quyền thế, quyết định chấp nhận cuộc sống của mình như nó vốn có, và quay qua nhìn về phía vịnh Bosphorus trong màu đen trắng, thì tôi thấy như là hüzün không phải đến từ câu chuyện tan nát, đau đớn của nhân vật chính, hay từ sự thất bại không cưới được người đàn bà mà anh ta yêu thương; mà hüzün, trong lúc tẩm vào những cảnh vật, những con phố, những khung cảnh nổi tiếng của Istanbul, đã bước vô trái tim của anh chàng si tình và bẻ gãy ước muốn của anh ta. Và như thế đối với tôi, để hiểu câu chuyện, và chia sẻ nỗi buồn của anh ta, chỉ cần nhìn khung cảnh. Bởi vì, với các nhân vật trong những bộ phim bình dân, hay trong Hòa bình của Tanpinar, chỉ có hai cách đế vượt qua ngõ cụt: hoặc đi lang thang dọc theo vịnh Bosphorus, hay quay lại với những con phố nhỏ của thành phố và ngắm nghía những điêu tàn đổ nát ở trong chúng.

Giải pháp độc nhất của nhân vật là giải pháp mang tính cộng đồng. Nhưng với các nhà văn, nhà thơ Istanbul, những người hào hứng phấn khởi vì văn hóa Tây phương và muốn nhập vào thế giới đương thời, vấn đề cũng vẫn còn rối rắm. Cùng với ý nghĩa cộng đồng mà hüzün mang tới, những nhà văn nhà thơ nói trên còn mong du nhập được chủ nghĩa duy lý của Montaigne, nỗi cô đơn tình cảm của Thoreau. Vào những năm đầu của thế kỷ hai mươi, một số trong họ đã dựa vào các ảnh hưởng trên để sáng tạo ra một số hình ảnh Istanbul, phải nói là, vẫn có phần của thành phố, và cũng có phần câu chuyện của tôi. Tôi viết cuốn sách này, trong một cuộc đàm luận thường trực – và đôi lúc, căng thẳng, gay go – với bốn tác giả buồn bã đơn độc; họ (sau khi đọc ngấu nghiến, ngập ngừng bàn cãi liên miên, và ngẫu hứng dạo chơi xen những tình cờ, ngẫu nhiên), đã đem đến cho một thành phố Istanbul hiện đại nỗi buồn của nó.

Chú thích:

[13] Sufism có thể hiểu chung là nhánh ngả theo khuynh hướng thần bí của Hồi giáo.

[14] Loại taxi đợi đầy người trên xe mới đi, và dừng lại theo yêu cầu.

[15] Nghĩa là “đống đổ nát”.