← Quay lại trang sách

Chương 32 Anh em đánh lộn

Từ sáu đến mười tuổi, tôi đánh lộn với ông anh tôi liên tục và càng ngày tôi càng bị nện khốc liệt hơn. Chỉ hơn tôi mười tám tháng, nhưng anh tôi to con, khỏe hơn tôi rất nhiều và bởi vì (và có lẽ giờ vẫn vậy) chuyện hai anh em đánh lộn được coi là bình thường, thậm chí có lợi cho sức khỏe, thành thử người lớn ít khi can thiệp, vì đâu có cần thiết. Tôi coi những lần bị tẩn như vậy là các thất bại có tính cá nhân, và chỉ trách mình yếu ớt và kém khéo léo; vào những năm đầu, khi ông anh tỏ ra cáu giận, và không thèm chơi với tôi, thì chính tôi là người gây hấn trước, và dù cho vẫn nghĩ mình mới là kẻ có lỗi, đáng bị ông anh tẩn cho một trận, về nguyên tắc tôi không phải người thích thách thức bạo lực. Nếu trận đánh kết thúc bằng kính cửa sổ bị bể, mình mẩy tôi thâm tím, chảy máu, thì điều mẹ tôi phàn nàn khi rốt cuộc cũng nhảy vào can thiệp không phải là chuyện hai anh em đánh nhau, hay vì tôi bị u đầu chảy máu, mà là vì bãi chiến trường bề bộn – và là bởi anh em tôi không giải quyết một cách hòa bình mà lại đánh lộn, la ó, khiến hàng xóm phải than phiền.

Sau này, khi tôi nhắc lại với bà mẹ và ông anh về những trận chiến ấy, cả hai đều tuyên bố là chẳng nhớ gì hết, và rằng, như thường lệ, tôi lại bịa chuyện để có đề tài viết lách, để tô son vẽ phấn lên quá khứ cho nó thêm mùi mẫn. Cả hai đều tỏ vẻ hết sức thành thật, hết sức tự nhiên đến nỗi sau cùng tôi bắt buộc phải đồng ý và đành tự nhủ, như thường lệ, mình sống trong cõi tưởng tượng nhiều hơn là trong cõi đời thực. Bởi vậy, độc giả có đọc những dòng này thì cũng nên châm chước, và hiểu cho là tôi không thể nào giải phóng ra khỏi trí tưởng tượng của mình, giống như một kẻ bị bệnh huyễn tưởng, tuy ý thức được những trục trặc của cái đầu của mình, nhưng chẳng làm sao rũ ra khỏi cảm tưởng mình là kẻ bị săn đuổi. Tuy nhiên, điều quan trọng đối với một họa sĩ không phải thực tại của một điều gì đó, mà là hình dạng của nó, điều quan trọng đối với một tiểu thuyết gia không phải tiến trình các sự kiện, mà là cách thức trật tự của chúng, và điều quan trọng đối với một nhà viết hồi ức không phải là tính chính xác về mặt thực tế của sự kiện, mà là sự đối xứng của nó.

Bởi vậy, độc giả nào để ý đến chuyện khi tôi miêu tả Istanbul là miêu tả chính tôi, và khi miêu tả chính tôi là miêu tả Istanbul, thì hẳn đã nhận ra rằng tôi đang nhắc đến những trận đấm đá trẻ con nhưng không chút khoan nhượng giữa hai anh em chúng tôi là để sửa soạn sân khấu cho một cái gì đó khác. Nói cho cùng, trẻ con có chiều hướng tự nhiên là tự thể hiện mình bằng bạo lực; bọn con trai sẽ vẫn là bọn con trai. Cho tới khi được mười hai và mười tuổi, anh em chúng tôi đã tự tạo ra cho mình một thế giới riêng, đóng kín với bên ngoài. Chúng tôi không mấy khi giao du với lũ trẻ khác. Có những trò chơi chúng tôi phát minh ra cho riêng chúng tôi, những trò chơi thông thường nhưng kèm theo các luật lệ đặc biệt. Trong căn nhà âm u của chúng tôi, hai anh em chơi Trốn Tìm, Bắt Khăn Tay, Con Rắn, Đại Úy Biển, Hopscotch, Đề đốc đã chìm, Tên thành phố, Chín viên đá, Khiếp Đảm, Những kẻ tìm kiếm, cờ vua, đẩy bóng trên bàn (trên một cái bàn dành cho trẻ con), và bóng bàn (trên cái bàn ăn có nguy cơ đổ sụp của chúng tôi), đó là mới chỉ liệt kê sơ sơ. Khi mẹ tôi vắng nhà, chúng tôi lấy giấy báo cuộn lại thành trái banh, và sân chơi là cả căn nhà, hai anh em chơi đến khi mệt nhoài, và thường xuyên những trò chơi như vậy kết thúc bằng ẩu đả.

Trọn nhiều năm cuộc đời mình chúng tôi dành cho môn “chơi bi”, trò chơi mô phỏng các chiến thuật và huyền thoại từ thế giới bóng đá đầy tính chất đàn ông. Dùng những miếng backgammon33 làm cầu thủ, đặt chúng trên sân chơi theo luật lệ của túc cầu, chúng tôi bắt chước các chiến lược phòng ngự và tấn công như đã quan sát được, và chúng tôi càng thành thục bao nhiêu thì trò chơi càng thêm hào hứng bấy nhiêu. Chúng tôi sắp xếp những miếng “backgammon” (hay những viên bi thủy tinh) của hai đội thành đội hình trên tấm thảm sàn nhà được sử dụng làm sân chơi, và rồi, tuân theo các luật lệ tinh tế và đa dạng mà chúng tôi tạo dựng ra sau hàng trăm trận đấu, hai anh em bắn bi vào những khung thành mà một người thợ mộc đã làm cho chúng tôi. Có lúc những viên bi được đặt tên theo các danh thủ của thời kỳ đó, và giống như những người không gặp khó khăn gì để phân biệt những cô mèo vằn yêu quý, chỉ cần đưa mắt nhìn là chúng tôi nhận ngay ra chúng. Chúng tôi bàn về trận banh trước đám đông tưởng tượng, y như Halit Kıvanç, nhà bình luận thể thao số một thời kỳ đó, và khi ghi bàn, chúng tôi cũng la lớn “Dzô rồi… Dzô…” như những khán giả đang đứng coi đá banh tại cầu trường, và rồi chúng tôi cũng bắt chước những tiếng reo hò náo nhiệt của một trận đấu thực ở ngoài đời. Chúng tôi cũng không quên những lời bình luận của liên đoàn bóng đá, của các cầu thủ, báo chí, và luôn cả của người hâm mộ, (nhưng không bao giờ để ý đến mấy ông trọng tài); sau cùng, quên hẳn đi đây chỉ là trò chơi của trò chơi, chúng tôi lao vào trận đấu không khoan nhượng, sống còn. Và thường là tôi bị quỵ sau những cú đầu tiên của ông anh.

Những cuộc đánh lộn thoạt đầu bùng nổ là do thua được, chê bai quá đáng, hay chơi ăn gian, nhưng chính tính chất đối đầu đã cung cấp nhiên liệu cho chúng. Chúng tôi đánh lộn không phải để chứng tỏ bên nào đúng, bên nào sai, mà là để thị uy, đứa nào mạnh, ra đòn nhanh, rành môn chơi hơn đứa kia. Những trò chơi thời con nít như thế còn biểu hiện sự lo lắng mà chúng tôi cảm thấy về chuyện phải học cho thành thạo luật chơi – và một cách gián tiếp là luật lệ của thế giới – nơi chỉ trong một thoáng chốc, chúng tôi phải tỏ ra lanh lẹn và can đảm. Trong các cuộc đối đầu là bóng tối âm u của một nền văn hóa đã từng khiến ông chú của chúng tôi tấn công chúng tôi bằng những trò chơi ô chữ và những bài toán bất cứ khi nào chúng tôi vô nhà ông, cũng cái nền văn hóa xui khiến chúng tôi khá nghiêm túc lên xuống các tầng lầu của tòa nhà – mỗi tầng lầu ủng hộ một đội banh khác nhau – và đó cũng là những điều chúng tôi nhận ra ở trong sách vở nhà trường, những cuốn sách cường điệu về những chiến công hiển hách của Thổ Nhĩ Kỳ thời kỳ Đế chế Ottoman, hay trong những cuốn sách mà chúng tôi được tặng, thí dụ như cuốn Bách khoa toàn thư về khám phá và phát minh.

Mẹ tôi cũng có vai trò ở đây, có lẽ bởi vì bà muốn làm cho cuộc sống hằng ngày của bà nhẹ nhàng hơn, bà biến tất cả những gì mà bà có thể thành một cuộc thi. “Đứa nào mặc đồ ngủ và đi vô giường ngủ trước sẽ được mẹ hôn”, mẹ tôi thường nói. “Đứa nào suốt mùa đông không cảm cúm không nằm bịnh thì mẹ sẽ mua cho một món quà”. “Đứa nào ăn xong đĩa xúp trước mà không làm dơ quần áo sẽ được mẹ yêu nhất”. Những câu nói có vẻ khiêu khích hai anh em của mẹ tôi đều có dụng ý biến đổi tính tình của hai đứa chúng tôi thành ra “đức hạnh”, trật tự và hợp tác hơn.

Nhưng đằng sau những cuộc đánh lộn vô hy vọng của tôi với ông anh là cuộc đua tranh bền bỉ của những người hùng của tôi, tất cả đều nhập cuộc với niềm tin chiến thắng, họ là cao thủ số một, cho dù kết quả chưa biết ra sao. Vì vậy – như trong lớp học, tất cả đều giơ tay để chứng tỏ chúng tôi không phải là những kẻ tối dạ, cù lần – ông anh tôi và tôi, đứa nào đứa đó đều chiến đấu hết mình để đè bẹp địch thủ, để vượt lên trên nỗi sợ hãi mà chúng tôi giấu giếm thật kỹ ở một xó xỉnh thật tối tăm của trái tim của mỗi đứa: nỗi buồn và sự đau khổ của việc phải chia sẻ số phận nhục nhã của thành phố Istanbul. Khi đám cư dân của nó già đi và cảm thấy số phận của mỗi người đều mắc míu, đan xen với số mệnh của thành phố, họ sẽ hoan hỉ đón nhận chiếc áo choàng của nỗi buồn Istanbul, chính chiếc áo choàng này đem cho cuộc đời họ một sự hài lòng, một chiều sâu xúc cảm, gần giống như là hạnh phúc. Chỉ tới lúc dó, họ mới sửng cồ với số mệnh của mình.

Ông anh tôi luôn hơn tôi rất nhiều ở trường lớp. Anh biết địa chỉ của mọi người, và có thể nhớ những con số, số điện thoại, các công thức toán học ở trong đầu như một giai điệu bí mật (bất cứ khi nào hai anh em cùng dạo phố, trong khi tôi gí mắt vào những khung cửa kính sáng choang, hay ngẩng mặt nhìn trời, hay nhìn bất cứ cái gì gây tò mò, thì ông anh tôi nhìn những con số trên đường và tên của các tòa nhà); ông anh tôi mê đọc lên những điều lệ đá banh, những kết quả trận đấu, tên thủ đô các quốc gia trên thế giới, những thống kê thể thao, và bốn mươi năm sau, ông thích thú kể ra vanh vách những khuyết điểm của các địch thủ cùng trong giới khoa bảng của ông, cũng như khoảng không gian nhỏ bé mà họ chiếm được ở Chỉ mục Trích dẫn. Mặc dù niềm say mê vẽ của tôi một phần xuất phát từ ý muốn được dùng thời gian một mình với những cây bút chì, mớ giấy vẽ, vẫn còn có điều gì đó liên quan tới việc anh tôi chẳng thèm để ý đến ba cái trò vẽ vời ấy.

Nhưng sau hàng giờ đồng hồ ngồi vẽ, nếu không kiếm thấy hạnh phúc mà tôi đang mầy mò đi tìm, và khi bóng tối của căn nhà nặng nề với những chiếc màn cửa và dòng đồ đạc chất đầy bắt đầu len lén chui vào tâm tư, như mọi cư dân thành phố thường làm, tôi dò dẫm một lối đi thật nhanh dẫn tới vinh quang, bước vào một cuộc tranh tài hòng biến điều này trở nên có thể; bất cứ trò nào vào thời điểm đó chúng tôi đang quan tâm – một trận bi, một trận cờ, một trò chơi thử tài thông minh – và tôi sẽ gạ ông anh cùng nhập cuộc với mình.

Ông anh tôi sẽ thò đầu ra khỏi cuốn sách đang đọc và nói “Ngứa ngáy trả thù rồi hả?” – ý ông nhắc tới trò chơi mà tôi hầu như bao giờ cũng thua, không phải những lần ông tẩn tôi sau đó. “Kẻ thua trận không bao giờ chán chiến đấu!” ông nói, khi nhớ lại những trận đấu mới rồi. “Tao phải làm cho xong bài tập đã, chừng một tiếng nữa là có thể bắt đầu”. Và ông quay lại với cuốn sách.

Bàn học của ông anh tôi lúc nào cũng ngăn nắp, chẳng bù cho bàn của tôi, bề bộn chẳng khác chi cảnh hoang tàn sau một trận động đất.

Nếu những trận thư hùng đầu tiên giúp chúng tôi học được những cách thức của thế giới, thì về sau này chúng mỗi lúc một trở nên u ám hơn, và những cú đấm đá của ông quả thực là đã để lại những vết sẹo ở trong tâm tưởng tôi, và tôi hiểu ra rằng, chính những luật lệ của cuộc đời đã tham dự vào các trận thư hùng giữa hai anh em. Chúng tôi lớn lên dưới cặp mắt lúc nào cũng lo âu trông chừng và những lời khuyên bảo, cảnh cáo của một bà mẹ cố gắng lấp đầy khoảng trống trong gia đình do ông bố luôn vắng mặt, một bà mẹ lúc nào cũng khăng khăng tự nhủ rằng nếu chối từ sự trống vắng đó thì bằng một cách nào đó bà cũng sẽ ngăn được nỗi buồn của thành phố xâm nhập vào bên trong căn nhà. Nhưng giờ đây chúng tôi đã bắt đầu hành xử như là hai đứa con trai trưởng thành, mỗi đứa tự khoanh vùng riêng cho mình. Những luật lệ và quy định chúng tôi đặt ra trong suốt nhiều năm để làm sao giữ được hòa bình – phần nào của những chiếc tủ đựng chén đĩa là thuộc về thằng anh, hay thằng em, những cuốn sách nào thuộc về đứa nào, đứa nào có quyền ngồi kế cha trên chiếc xe hơi của ông, và được ngồi trong bao lâu, đứa nào phải lo đóng cửa phòng ngủ khi đi ngủ, đứa nào phải tắt đèn bếp, và khi số mới nhất của tờ tạp chí Lịch sử tới nơi, đứa nào có quyền đọc trước – ngay những điều khoản đã được ấn định ấy cũng trở thành nguồn gốc cho cãi vã, chửi rủa, mắng nhiếc, và dọa nạt. Chỉ một nhận xét vô thưởng vô phạt – “Này, cái đó của tao, đừng đụng vô!” hay “Coi chừng, nếu không là sẽ khốn khổ khốn nạn liền bây giờ!” – là đủ để làm bùng nổ cuộc huynh đệ tương tàn liền tức thì. Để bảo vệ mình, tôi vớ vội cây gỗ móc quần áo, hay cây sắt lò sưởi, cán chổi, hay bất cứ một vật gì ngay tầm tay mà tôi có thể sử dụng như là một cây gươm.

Trước đây, chúng tôi sử dụng một trò chơi từng nhìn thấy trong đời thực (thí dụ một trận đá banh) và bắt chước nó bằng những viên bi; nếu có vấn đề về niềm kiêu hãnh và danh dự, chúng tôi có thể dàn xếp bằng một cuộc đánh lộn, nhưng chúng tôi chỉ quan tâm tới trò chơi mà thôi; giờ đây chúng tôi vứt bỏ đi cái cớ đó để mà đánh lộn nhằm giải quyết các vấn đề kiêu hãnh và danh dự trực tiếp rút ra từ cuộc đời. Chúng tôi biết quá rõ chỗ yếu của mỗi đứa, và bắt dầu khai thác chúng. Trên hết, những cuộc đánh lộn giữa chúng tôi không còn là những cơn bùng phát giận dữ biến thành bạo lực; chúng đã trở thành những hành động gây hấn được lên kế hoạch không chút khoan nhượng.

Một lần tôi tìm cách thoi ông anh, và ông nói, “Tối nay, khi bố mẹ đi coi xi nê, sao sẽ nghiền mày thành cám!” Vào lúc ăn tối, tại bàn ăn, tôi nhắc lại lời hăm dọa của ông anh, năn nỉ cha mẹ đừng rời nhà, nhưng vô ích, họ tỉnh bơ đi coi xi nê, tỉnh bơ như những nhà chuyên gìn giữ hòa bình, yên tâm là đã đạt được thỏa ước giữa hai phe thù nghịch.

Đôi khi, khi chỉ có hai chúng tôi ở nhà – và cuộc chiến dữ dội xảy ra, hai anh em ném tất cả những gì mình có vào cuộc thư hùng đến mệt nhoài, mồ hôi mồ kê ướt đẫm – và đúng lúc đó, chuông cửa reo, và chẳng khác chi một cặp vợ chồng bị hàng xóm bắt gặp tại trận đang sắp sửa ăn tươi nuốt sống lẫn nhau, chúng tôi bèn ngưng chiến, và thật là lịch sự, thật là lễ phép, chúng tôi mở cửa mời vị khách vô tích sự đó, “Mời ông vô nhà”, “Mời ông ngồi”, trong khi hai thằng nháy nhau, và chúng tôi nói với khách mẹ chúng cháu không có nhà, nhưng sẽ về liền. Nhưng sau đó, khi chỉ còn lại chúng tôi, thay vì như một cặp vợ chồng tiếp tục cấu xé nhau, chúng tôi đứa nào đứa nấy trở lại với thú vui riêng biệt của mỗi đứa, như không có chuyện gì xảy ra. Đôi khi, bị ông anh tẩn cho một trận quá nặng nề, tôi nằm lăn ra thảm khóc lóc như một đứa trẻ tưởng tượng ra đám tang của chính nó, và mệt quá ngủ quên mất. Ông anh tôi, chẳng phi nhân tính hay nhân hậu hơn gì thằng em, sau khi ngồi loay hoay ở bàn học, cảm thấy tội nghiệp cho tôi; ông đến đánh thức tôi dậy, bảo tôi đi tắm rửa, thay quần áo và đi ngủ, nhưng khi ông anh trở lại bàn học, thằng em cứ quần áo xốc xếch như vậy mà leo lên giường để gặm nhấm thú đau thương trong bóng tối.

Nỗi buồn mà tôi mong muốn – và sau này, đòi hỏi – và tâm trạng thất thế tan hoang, tủi nhục cũng cho phép tôi có được thời gian ngưng chiến đối với tất cả những luật lệ cần phải học, tất cả những bài toán phải giải, mọi đoạn trong Hiệp ước Karlowitz phải ghi nhớ. Được bị tẩn đến gục ngã, và được bị tủi nhục là cũng có nghĩa cảm thấy mình được tự do. Có những lúc tôi thèm bị đánh bại, bị thua trận, bị tủi nhục, đúng như anh tôi bảo, đây là mi muốn đây nhé. Đôi khi, bởi vì anh tôi cảm thấy điều đó, và bởi vì anh tôi thông minh hơn tôi, mạnh hơn tôi, cho nên tôi muốn đánh lộn với anh bằng tất cả sức mạnh của mình, để bị đánh bại.

Sau mỗi trận đánh lộn, một ý nghĩ đen tối bao trùm lấy tôi, khi tôi nằm cô đơn trên giường, cảm thấy mình mới dơ dáy tội lỗi và lười biếng làm sao. Một giọng nói ở bên trong tôi vang lên, Chuyện gì vậy? và tôi nghe tiếng tôi trả lời, Tôi xấu xa. Và trong một thoáng chốc, câu trả lời ấy ban cho tôi một sự tự do làm rung động toàn thân; một thế giới mới mẻ sáng bừng mở ra trước mắt tôi. Và nếu tự sửa soạn cho mình đủ liều lượng xấu xa, tôi có thể vẽ bất cứ khi nào tôi muốn, quên tất cả bài học bài làm nhà trường, cứ thế mặc quần áo mà ngủ. Cùng lúc đó, có một sự thoải mái có được nhờ bị đòn, nhờ bị thua, nhờ tổn hại, nhờ những vết bầm tím trên mình mẩy chân tay, nhờ môi rách toang, nhờ máu mũi chảy ròng ròng: Thân thể tan hoang như thế là bằng chứng cho thấy tôi đánh đấm thật dở, xứng đáng bị đánh bại, bị làm nhục, bị nghiền nát. Có lẽ chính là vào lúc trong đầu đầy ắp các ý nghĩ như thế mà những giấc mơ ngày nở bung ra trong đầu tôi như những đợt gió mát mùa hè, và tôi sướng lịm người với cảm giác, một ngày nào đó ta có thể làm được một điều gì thật là lớn lao, vĩ đại. Những giấc mơ này có tiềm năng làm cho nguồn gốc của chúng, nghĩa là sự hung bạo và niềm kiêu ngạo bị thương tổn, trở nên lầm lạc. Thế giới thứ nhì kia lung linh trước mắt tôi, hứa hẹn một cuộc đời mới hạnh phúc, đã được nuôi dưỡng trước hết bằng bạo lực mà tôi đã phải chịu đựng, và nó làm cho tất cả những sự tưởng tượng của tôi thêm quyến rũ, sống động. Vào những lúc như thế; bằng trực giác, tôi cũng khám phá ra nỗi buồn-hüzün của thành phố nằm trong tôi, và khi tôi cầm lên cây bút chì, tờ giấy, những gì tôi vẽ ra mới làm cho tôi hài lòng làm sao, và trong khi tôi quên đi thế giới, vui với nỗi buồn của mình, phần u tối của nó cứ thế nhạt nhoà dần.