Chương 33 Một người nước ngoài trong một ngôi trường nước ngoài
Nếu tính cả năm dự bị học tiếng Anh thì tôi trải qua bốn năm tại Học viện Robert. Đó là những năm chấm dứt thời con nít của tôi, và tôi khám phá ra một điều, thế giới xô bồ, rắc rối, khó nắm bắt, và rộng lớn vô cùng, so với thế giới mà tôi từng tưởng tượng khi còn là một đứa bé. Thế giới tuổi thơ của tôi thì chỉ luẩn quẩn trong gia đình gần gụi của tôi trong một ngôi nhà, một đường phố, một khu xóm, tất cả tạo dựng thành trung tâm thế giới. Cho tới khi tôi bước vào trung học, học vấn mà tôi có được không giúp được gì cho tôi trong việc gỡ khỏi cái quan niệm cho rằng trung tâm vũ trụ về mặt địa lý và của cá nhân con người tôi cũng đặt ra các tiêu chuẩn cho cả những gì còn lại của thế giới. Vô trung học, tôi khám phá ra rằng, thực sự, tôi không sống ở trung tâm thế giới, và cái nơi chốn tôi sống không phải là ngọn hải đăng của thế giới – điều này còn đau lòng hơn. Khám phá ra sự mong manh của nơi chốn của tôi ở trong thế giới, và cùng lúc, khám phá ra sự rộng lớn của thế giới (tôi thích đắm chìm vào những mê cung váng vất mùi giấy cũ của cái thư viện trần thấp lè tè được tạo dựng bởi những người Mỹ theo đạo Tin lành đã lập ra trường), tôi thấy cô đơn, yếu đuối và bất lực hơn bao giờ hết.
Còn điều này nữa, ông anh tôi không còn ở với gia đình. Khi tôi mười sáu tuổi, ông anh tôi rời đi Mỹ để học tại Đại học Yale. Chúng tôi có thể đánh lộn tối ngày nhưng chúng tôi vẫn là bạn tâm giao của nhau – bàn luận với nhau về thế giới xung quanh chúng tôi, phân loại, đặt để sự vật, đưa ra sự phán xét – và mối thân thiết của tôi với anh tôi mạnh hơn nhiều so với với mẹ và bố. Thoát khỏi những cuộc tranh đua chẳng bao giờ chấm dứt, những lời xỉ vả và những trận đòn thâm tím người, tôi có thế thỏa sức thắp sáng trí tưởng tượng và tha hồ mà trì trệ uể oải, thành ra tôi không có nhiều lý do để phàn nàn. Tuy nhiên, đặc biệt vào những lúc quá buồn, tôi mới cảm thấy rõ rệt sự thiếu vắng của ông anh tôi.
Hình như có một cái gì đó rất cốt yếu ở trong tôi bị tan rã, nhưng tôi không làm sao xác định được rõ ràng. Có thể vì nó mà tôi không làm sao tập trung hết mình vào việc học ở trường, ở nhà, hay bất cứ điều gì khác. Đôi khi tôi cảm thấy đau lòng vì không còn đứng đầu trong lớp mà chẳng cần một cố gắng đặc biệt, nhưng cứ như thế tôi cũng đánh mất luôn cả khả năng cảm thấy bực bội hay thích thú quá mức về bất kỳ điều gì. Ở thời tuổi thơ, khi tôi nghĩ là mình hạnh phúc, cuộc sống mới dịu dàng, mượt mà, thoải mái làm sao, giống như một câu chuyện thần tiên. Tới năm tôi mười ba hoặc mười bốn tuổi, câu chuyện tuổi thơ thần tiên ấy vỡ tung ra những mảnh nhỏ. Đôi khi tôi vẫn cố sức tin tưởng chân thành một trong những mảnh đó; tôi cố gắng sống hết mình với nó, nhưng, cũng như không giữ nổi ngôi vị số một ở trong lớp, tôi cũng không làm sao thực hiện được cái chuyện sống hết mình cho một mảnh của đời mình, và sau cùng đành chịu thua, bỏ ngang. Đôi khi thế giới bỗng như thể thật xa vời, cái cảm giác tôi thấy vô cùng nhức nhối, đúng vào lúc làn da, tâm trí, các giác quan của tôi đang rất sẵn lòng mở rộng ra với nó.
Trong toàn bộ sự bấn loạn đó có những huyễn tưởng tình dục không bao giờ chấm dứt, chúng nhắc nhở về một thế giới khác nơi tôi luôn có thể tìm được chỗ trú ẩn. Tôi hiểu sex không như điều mà bạn chia sẻ với một người khác, mà như một giấc mơ mà bạn sáng tạo ra cho chính mình. Giống như chiếc máy tự lắp đặt trong đầu tôi để đọc cho tôi từng con chữ, cái hồi tôi mới học đọc, giờ đây có một cái máy mới chuyên vẽ ra một giấc mơ nhục dục hay một niềm sướng khoái thoáng qua từ gần như bất cứ điều gì và dựng lên cảnh tượng rõ mồn một như chụp ảnh màu. Chẳng còn gì là thiêng liêng – cái máy lấy chất liệu từ bất kỳ ai tôi quen, bất cứ hình ảnh nào mà tôi nhìn thấy trên báo tạp chí, và khi nó đã cắt dán các chi tiết cần thiết để tạo thành một huyễn tưởng tình dục, thì tôi có thể vô phòng riêng mà khởi động nó.
Sau khi ê ẩm cả người vì thú đau thương và vì cảm giác tội lỗi, tôi nhớ lại lần nói chuyện cùng hai bạn cùng lớp, thời gian học trung học. Một thật béo, một nói lắp. Vật lộn tìm từ ngữ, anh nói lắp hỏi tôi, “Bạn đã từng làm chuyện đó chưa?” Rồi, thời gian học trung học tôi đã làm chuyện ấy, nhưng tôi cảm thấy xấu hổ đến nỗi chỉ ấp úng thốt ra một tiếng, hiểu là có cũng được, mà không cũng được. “Đừng bao giờ làm chuyện đó!” anh bạn nói cà lăm la lên, mặt đỏ bừng vì ý nghĩ tại sao một đứa bạn như tôi, thông minh, trầm tĩnh, chăm học mà có thể sa đọa tới mức thê thảm như thế. “Thủ dâm là một thói quen đáng sợ; một khi đã bắt đầu, bạn không thể nào ngưng được nữa”. Tới lúc đó, tôi nhớ lại ánh mắt van vỉ của anh bạn béo mập – mặc dù anh cũng thì thầm với tôi bằng cái giọng khẩn thiết, cố tránh thủ dâm (hay ba mươi mốt, từ lóng của đám chúng tôi) – bởi anh ta cũng đã khám phá ra phương thức thần diệu tự mình làm mình sướng này. Giờ thì anh ta nghĩ là anh ta bị trù yểm, và đây là số phận của anh, cũng như việc anh ta quá mập, Chúa đã phán như vậy thì đành cúi đầu nhẫn nhục tuân theo thôi.
Trộn lẫn trong những kỷ niệm, hồi tưởng về những năm tháng này còn có một điều cũng gây cho tôi mặc cảm tội lỗi và nỗi cô đơn nhưng tôi cứ tiếp tục làm khi đã vào Đại học Kỹ thuật học ngành kiến trúc. Đó là trò trốn học. Nhưng điều này, thực sự, tôi đã bắt đầu từ hồi còn học tiểu học.
Thoạt đầu, chỉ là do buồn chán, hay xấu hổ về một sự thiếu hụt mà người khác chẳng ai để ý tới, và có thể còn là do tôi biết hôm đó nếu đi học thì sẽ phải tiêm phòng. Nhưng cũng rất nhiều khi chuyện tôi trốn học đi hoang chẳng mắc mớ gì đến nhà trường: một cuộc cãi lộn giữa cha mẹ tôi, hoàn toàn chỉ do lười biếng hay vô trách nhiệm, một đợt ốm đau khi tôi bị đối xử như là một đứa con nít còn nằm nôi. Một bài thơ tôi phải học thuộc, viễn cảnh bị một ông bạn ăn hiếp, và (khi đã trung học hay đại học) nỗi chán nản sâu sắc của tôi, nỗi buồn của tôi, niềm tuyệt vọng có tính chất hiện sinh của tôi – những cái đó cũng có thể trở thành những cái cớ. Đôi khi, tôi trốn học bởi vì tôi chỉ muốn ở nhà, bởi vì – khi ông anh đi học – một mình ở nhà, ở trong phòng tôi, chỉ khi đó tôi mới làm hoàn hảo được một số chuyện, và ngoài ra, từ lâu tôi đã biết rằng tôi không thể nào là một học sinh tốt như ông anh của mình. Nhưng còn có một điều gì đó sâu thẳm hơn, và nó đến từ cùng một nguồn đã làm nên nỗi buồn của tôi.
Con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh, cái thú đi hoang của cha tôi là được thừa hưởng từ ông nội của tôi, và sau khi xài hết gia tài của ông bố để lại, cha tôi đem mẹ tôi đi Geneva, và kiếm được một việc làm ở đó, còn chúng tôi bị bỏ lại ở với bà. Cháu hư tại bà, như người ta thường nói, và chính vì thế mà tôi lại càng tìm cách trốn học nhiều hơn trước. Lúc đó tôi đã tám tuổi, mỗi sáng, khi İsmail Efendi nhấn chuông cửa, báo hiệu tới giờ đưa chúng tôi đi học, ông anh tôi, lưng đeo cặp sẵn sàng, thường là người đầu tiên bước ra khỏi nhà trong khi tôi vẫn cố tìm cho ra một lý do để mà trì hoãn: chưa tìm đủ những sách vở cần thiết cho buổi học, vừa mới nhớ ra là còn quên một chuyện (chưa xin bà tôi một đồng lira bỏ túi), tự dưng đau bụng, giày ướt, chiếc áo mặc dơ quá, cần thay áo khác… Ông anh tôi, biết tỏng thằng em, lại ghét chuyện phải chờ đợi, gắt lên “Thôi đi, İsmail, lát nữa quay lại đưa Orhan đi học sau”.
Trường học của chúng tôi thì cách nhà chừng bốn phút đi bộ. Vào lúc İsmail đưa ông anh tới trường và quay trở lại đón tôi thì lớp học cũng bắt đầu. Tôi lết cặp giò, kiếm một người nào đó để đổ tội về một chuyện gì đó khiến tôi giả đò đau bụng quá không nghe tiếng chuông của İsmail. Tới giờ đó, vì một chuỗi những lời nói dối và những mánh khóe và nhờ món sữa tệ hại mỗi sáng tôi bắt buộc phải uống – sôi bỏng, mấy giọt sữa vẫn còn dính trên lỗ mũi – dạ dày tôi quả có nhâm nhẩm đau, tới lúc đó bà tôi xuất hiện.
“Thôi, chịu thua nó đi, İsmail. Giờ này quá trễ buổi học rồi; cho nó ở nhà đi”. Và quay qua tôi, bà nhướng mày “Nghe đây, ngày mai là mày bắt buộc phải đi học, nghe chưa. Nếu không là tao gọi cảnh sát đấy. Tao sẽ viết thư cho bố mẹ mày”.
Những năm sau đó, khi học trung học, chẳng còn ai kiểm tra, trò trốn học trở nên vui hơn nhiều. Vì phải trả giá tội lỗi của mình bằng mỗi bước chân trên phố phường, cho nên tôi có thể nhấm nháp cuộc trải nghiệm và nhìn thấy những thứ mà chỉ một anh chàng cù lần lười biếng đích thực mới nhận ra được: cái nón rộng vành bà kia đang mang, anh chàng ăn xin chắc là té vô lò lửa hay sao mà mặt loang lổ sẹo, vậy mà từ bấy lâu nay tôi không để ý, dù ngày nào cũng đi ngang, những người thợ cắt tóc và đám học việc đang ngồi đọc báo chờ khách trong tiệm của họ, cô thiếu nữ quảng cáo cho một món đồ hộp trên bức quảng cáo dán ở bức tường một tòa nhà bên kia đường, chiếc đồng hồ tại quảng trường Taksim và những cơ phận của nó, giống như một cái hộp đựng tiền (tôi sẽ chẳng biết đến điều này nếu không đi qua quảng trường vào đúng lúc mà người ta đang chỉnh lại cái đồng hồ). Những cửa tiệm bánh hamburger vắng tanh, những người thợ sửa khóa ở những con phố nhỏ khu Cihangir, những người bán đồ lạc xon, những cửa hàng sửa chữa đồ gỗ, những cửa hàng tạp hóa, những người buôn bán tem, cửa hàng dụng cụ âm nhạc, tiệm sách cũ, những người làm con dấu, và cửa hàng bán máy chữ ở Yüksekkaldırım – mọi thứ vừa thực, vừa đẹp, vừa mời mọc, y hệt như những ngày khi tôi còn là một đứa con nít, dạo qua khu này cùng với mẹ tôi. Phố xá tấp nập những người bán hàng rong, bán simit, sò nướng, cơm thập cẩm, hạt dẻ, thịt viên chiên, bánh mì cá, bánh mì hấp, ayran – một loại sữa chua – và quả loãng, và tôi sẽ mua bất cứ thứ gì bắt mắt. Tôi đứng ở góc đường, tay cầm chai soda, nhìn một đám con nít chơi đá banh (liệu chúng cũng trốn học như tôi, hay chẳng bao giờ phải đi học?); tôi đi xuống một lối đi trước đây tôi chưa từng thấy, và cảm thấy hạnh phúc vô chừng. Có những lúc, mắt tôi nhìn vô chiếc đồng hồ đeo tay, và tôi nghĩ, lúc này ở lớp học thì ra sao nhỉ, và mặc cảm tội lỗi làm cho nỗi buồn càng thêm cào cấu tôi.
Trong những năm trung học, tôi thám hiểm những con phố nhỏ của khu Bebek và Ortaköy, những ngọn đồi quanh khu Rumelihisarı, và những bến đỗ tại Rumelihisarı, Emirgân, và İstinye, hồi ấy chúng vẫn còn được sử dụng, và những quán cà phê của dân đánh cá, và các nơi họ dùng để neo những chiếc thuyền máy nho nhỏ; trốn học còn cho tôi cơ hội đáp những chuyến phà đi mọi nơi mà chúng sẽ ghé, thưởng thức mọi thú vui mà một chuyến phà đem đến cho hành khách của nó, khám phá ra những làng xóm dọc theo bờ vịnh Bosphorus: những bà già ngồi bên cửa sổ, những chú mèo hạnh phúc, và những con phố nhỏ nơi bạn có thể tìm thấy những căn nhà Hy Lạp cổ chẳng bao giờ khóa cửa vào buổi sáng.
Khi đã phạm những tội lỗi tày trời như thế; nhiều khi tôi cũng muốn quay đầu trở lại, đi theo con đường thẳng nhưng hẹp: trở thành một sinh viên gương mẫu, vẽ tranh đều đặn hơn, đi Mỹ nghiên cứu nghệ thuật, ngưng châm chọc những ông thầy người Mỹ của tôi (những người mặc dù có rất nhiều thiện ý, đều tự biến mình thành các biếm họa), ngưng làm phiền những ông thầy người Thổ lúc nào cũng bơ phờ và đầy ác ý vì tội đã làm phiền tôi. Trong một thời gian rất ngắn ngủi, tội lỗi của tôi biến tôi thành nhà lý tưởng hăng hái. Với thứ chủ nghĩa lý tưởng đó, tôi kết tội bất cứ một người lớn hay một giáo sư nào khi người này nói dối, hay đạo đức giả, hay đóng trò hề. Vào thời kỳ ấy, các tội lỗi chung nhất của những người lớn mà tôi quen biết – và đó là các tội lỗi mà tôi không thể dung thứ được – là không lương thiện và không chân thành. Từ kiểu họ thăm hỏi sức khỏe một người khác, hay cách họ de dọa chúng tôi, những học trò của họ, từ những thói quen mua sắm cho tới các phát biểu chính trị, đối với tôi tất cả biểu hiện của họ ở trên cõi đời này đều có hai mặt, và “kinh nghiệm ở đời” – điều mà họ lúc nào cũng lên giọng dạy bảo tôi, nói rằng tôi không có – có nghĩa là cái khả năng, sau một độ tuổi nào đó, trở nên đạo đức giả, thích thao túng người khác mà chẳng cần phải cố gắng gì hết, và sau đó, có thể ngồi lại chỗ cũ mà làm ra vẻ mình vô tội. Đừng hiểu lầm ý nghĩ của tôi ở đây: tôi cũng chơi đủ thứ trò ma mãnh, mánh mung, thay đổi câu chuyện mình nói làm sao cho hợp với người nghe, và nói dối chẳng thua gì ai, nhưng sau đó, tôi lâm vào tình trạng như bị chết đuối trong cảm giác tội lỗi, hoang mang, và nỗi sợ khủng khiếp là mình sẽ bị phát giác, đến nỗi có thời kỳ tôi lo lắng tự hỏi không biết mình có thể lại là một con người “bình thường” và cân bằng như trước; điều này làm cho những dối trá, che đậy, giấu giếm của riêng tôi có một hậu quả nào đó. Rồi thì tôi quyết định, mình sẽ không bao giờ nói dối nữa, và chấm dứt cái trò đạo đức giả – không phải vì ý thức được chuyện nói dối là không đúng, hay bởi vì nói dối và đóng vai người hai mặt thì cũng giống nhau, nhưng tình trạng hoang mang, bối rối tiếp theo sau những cú vi phạm như vậy làm tôi mệt nhoài.
Trạng thái mệt nhoài như vậy không chỉ xảy ra cho tôi sau khi nói dối đóng vai đạo đức giả, mà sau này, chúng xảy ra bất kỳ lúc nào, càng ngày càng nặng nề: trong lúc đang nói tiếu lâm với một người bạn, hay đang một mình đứng đợi khi xếp hàng mua vé coi xi nê ở Beyoğlu, đang cầm tay một em thật xinh đẹp mà tôi vừa gặp. Một con mắt to tổ bố chợt từ trong người tôi xồ ra, lơ lửng trước mặt tôi – giống như một thứ một cái máy camera chuyên theo dõi an ninh và cứ thế chăm chú theo dõi mọi hành động của tôi (trả tiền người đàn bà bán vé bên trong quầy, kiếm điều gì đó để nói với cô em xinh đẹp mới quen sau khi cầm được tay em), hay ghi lại bất cứ một câu nói thiếu chân thành nào mà tôi ngu ngốc thốt ra (“Làm ơn bán cho một vé, một chỗ ngồi ở giữa rạp, phim Yêu dấu, gửi từ nước Nga”; “Có phải đây là lần đầu em đến một bữa tiệc như thế này không?”). Tôi thấy mình cùng một lúc là đạo diễn và ngôi sao của bộ phim, vừa đóng một xen trong đời mình, vừa quan sát xen đó bằng một cái nhìn chế giễu, từ một quãng xa. Chỉ có thể làm ra vẻ tự nhiên, “bình thường” khi bị bắt tại trận như vậy trong vòng vài giây, sau đó tôi sẽ chìm sâu vào một nỗi thống khổ – tôi cảm thấy nhục nhã, sợ hãi, kinh khiếp vì bị vạch mặt, như là một kẻ ngoài hành tinh. Như thể có một kẻ nào đó đang gập linh hồn tôi thành nhiều nếp, gập mãi, gập mãi đến một lúc nó trở thành nhỏ xíu, giống như gập một tờ giấy, và trong lúc ấy tôi cảm thấy mình tan hoang, tơi tả, tất cả lục phủ ngũ tạng của tôi bắt đầu run lẩy bẩy.
Khi chuyện đó xảy ra, chỉ còn một cách độc nhất là chui vào một căn phòng rồi khóa cửa lại. Một mình trong phòng, tôi tiếp tục nói dối, nói trá, làm trò đạo đức giả, làm hoài, làm hoài cho đến khi cầm cây viết và tờ giấy để viết và vẽ, nhờ nó tôi có thể thoát ra khỏi vòng tròn vây hãm tôi, và chỉ tới lúc viết ra được vài chữ, hay vẽ được một cái gì đó mà tôi thích, tâm trí của tôi mới trở lại “bình thường”.
Đôi khi, ngay cả lúc không làm điều gì sai, bất thình lình tôi cũng thấy mình cứ giả giả. Thoáng bắt gặp bóng mình trên ô kính một cửa tiệm, hay, ở Beyoğlu, ngồi trong góc một trong những tiệm hamburger hay sandwich đang rầm rộ mở ra trong thành phố, tự mình ban cho mình một miếng bánh sandwich xúc xích sau khi từ một rạp xi nê ra, nhìn thấy mình trong tấm gương trên bức tường đối diện và nghĩ rằng sự phản chiếu đó đích thị là tôi, sự phản chiếu quá thực, quá tươi sống, không làm sao chịu đựng nổi. Những khoảnh khắc như thế mới thê thiết làm sao, chúng khiến tôi chỉ muốn chết, và tôi tiếp tục ăn miếng sandwich, với mùi vị thống khổ, nhận ra mình thật giống hệt tên khổng lồ của Goya – tên khổng lồ ăn thịt đứa con trai của nó. Sự phản chiếu giống như là một lời nhắc nhở những tội ác và tội lỗi của tôi, một sự xác nhận rằng tôi đúng là một tên mạt hạng. Không phải chỉ vì những phòng chờ của các ổ điếm không có môn bài ở những phố nhỏ khu Beyoğlu cũng có những tấm gương lớn có khung, treo trên tường như ở đây: tôi tởm chính mình bởi vì tất cả những gì xung quanh tôi – bóng đèn trần trên đầu tôi, vẻ bẩn thỉu của bức tường, tình trạng quầy hàng nơi tôi ngồi, những màu sắc mang vẻ bịnh tật ở bên trong tiệm – chúng nói lên sự cẩu thả, sự xấu xí. Và tôi biết, chẳng có hạnh phúc, tình yêu hay thành công nào chờ đợi tôi – tôi là kẻ bị trù ẻo phải sống dai, sống dài, một cuộc đời nhàm chán, buồn bực, chẳng có gì là đáng kể, tầm phào – một chuỗi dài thời gian đã chết đi trước mắt tôi, ngay cả khi tôi chưa hề chịu đựng nó.
Những người hạnh phúc ở Âu châu và Mỹ có thể có những cuộc đời đẹp và có ý nghĩa như tôi vừa được coi trong một bộ phim Hollywood; phần còn lại của thế giới, trong có cả tôi, chúng ta bị kết tội phải sống hết thời gian của chúng ta tại những nơi chốn tệ hại, hư hỏng, chẳng ra gì, sơn phết cẩu thả, đổ nát, rẻ tiền; chúng ta như bị trời đày, phải sống những cuộc đời không quan trọng, thứ cuộc đời hạng nhì, rẻ rúng, chẳng ai thèm biết đến, chẳng bao giờ làm được bất cứ điều gì có giá trị để thế giới bên ngoài để ý đến. Đó là số phận mà tôi từ từ, đau đớn sửa soạn cho chính mình. Bởi chỉ những người rất giàu ở Istanbul mới có thể sống như người Tây phương, và để được sống như thế có vẻ như họ phải trả giá bằng sự vô hồn, phi nhân, đạo đức giả không thể nào chịu đựng nổi, chính vì thế mà tôi càng ngày càng yêu vẻ buồn bã của những con phố nhỏ; tôi trải qua những buổi chiều thứ Sáu và thứ Bảy để một mình dạo qua chúng, và đi coi xi nê.
Nhưng cùng lúc đó, tôi sống cuộc sống của riêng tôi –đọc những cuốn sách mà tôi không chia sẻ với một ai, vẽ tranh, làm thân với những con phố nhỏ – tôi còn làm quen với những bạn bè xấu xa, độc địa. Tôi gia nhập một đám con trai có cha làm trong các ngành như vải sợi, hầm mỏ, và một số ngành kỹ nghệ khác. Đám bạn này đi học ở Học viện Robert trong những chiếc xe Mercedes-Benz của cha chúng, và khi chạy xe qua khu Bebek và Şişli, chúng chạy chậm lại bất cứ khi nào nhìn thấy một cô gái đẹp, và ngỏ lời mời cô gái lên xe, và nếu chúng tính “xúc một em”, như chúng thường nói, là đầu chúng đã ngay lập tức bắt đầu mơ tưởng những màn tình ái với cô gái đó. Chúng nhiều tuổi hơn tôi, nhưng hết sức cù lần, như không có bộ não. Những ngày cuối tuần, chúng dà xe qua những khu Maçka, Harbiye, Nişantaşı, và Taksim, nơi có nhiều cô gái qua lại, hy vọng xúc các em lên xe; mùa đông nào chúng cũng có mười ngày trượt tuyết trên vùng Uludağ với những đứa tuyền học trường tư ngoại quốc, và vào mùa hè chúng cố gắng gặp gỡ những cô gái đi nghỉ tại các nơi như Suadiye và Erenköy. Thỉnh thoảng tôi cũng đi cùng bọn chúng trong một dịp săn bắn, và điều làm tôi sững sờ là có những cô gái, chỉ đưa mắt qua lũ chúng tôi đã có ý nghĩ chúng tôi cũng trẻ con như các cô, và thế là bước lên xe chẳng chút ngần ngại. Một lần, có hai cô gái bước lên xe, trên xe có tôi, các cô hành động như thể chuyện bước lên một chiếc xe sedan sang trọng của những người xa lạ tình cờ đi ngang qua con phố là một chuyện quá ư bình thường. Tôi cũng góp chuyện theo kiểu bâng quơ cùng mấy em, và sau khi cùng đi tới một câu lạc bộ nơi chúng tôi uống nước chanh và Coca-Cola, chúng tôi giã từ hai em, đường ai nấy đi. Ngoài đám bạn này ra, bọn cùng ở khu Nişantaşı như tôi và chúng tôi thường chơi poker với nhau, tôi còn vài người bạn thỉnh thoảng chơi cờ vua, bóng bàn, hay gặp để bàn về hội họa và nghệ thuật. Nhưng tôi không bao giờ giới thiệu họ với nhau hay cùng gặp họ một lúc.
Với mỗi người trong số những người bạn đó, tôi là một con người khác, với một lối khôi hài khác, một giọng điệu khác, một thứ đạo đức khác. Tôi chưa bao giờ chủ định bước ra ngoài đường để trở thành một con kỳ nhông; chưa hề bao giờ tôi đề ra một chương trình ranh ma, bỉ ổi. Phần lớn những căn cước khác nhau như trên tự xuất hiện theo đà cuộc trò chuyện giữa tôi và những đám bạn bè khác nhau, khi tôi bị phấn khích về bất kỳ những điều họ nói. Sự dễ dàng trong thái độ đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy của tôi không tạo ra ở tôi sự bất mãn như tôi thấy ở rất nhiều người bạn của mình; vào quãng thời gian tôi hai mươi tuổi, điều này giúp tôi không trở thành một kẻ vô sỉ chủ nghĩa. Bất cứ khi nào có điều gì làm tôi quan tâm, là một phần trong tôi quấn quít với nó theo một cách thức tuyệt đối.
Nhưng những mối quan tâm say mê nhất cũng không ngăn được tôi thích chế giễu mọi người và mọi thứ. Tại Học viện Robert, khi bạn học cùng lớp tỏ ra thích thú với những câu chuyện tiếu lâm đậm vị chua cay tôi thì thầm vô tai hơn là nghe những lời vàng ngọc của thầy, tôi thấy thật hài lòng, điều này chứng tỏ tôi là một người kể chuyện có tài. Các nhân vật chính thường được đem ra làm trò cười là mấy ông thầy người Thổ buồn chán, một vài người trong số họ tỏ ra không thoải mái khi dạy học trong một nhà trường Mỹ và sợ các “điệp viên” trong số chúng tôi báo cáo về họ với người Mỹ; một số ông thầy Thổ khác thì lại ham hố những bài diễn thuyết lòng thòng của họ về chủ nghĩa quốc gia, và ngoài ra, so với những người Mỹ, họ có vẻ vô cảm, mệt mỏi, già nua, bải hoải, vì vậy chúng tôi cảm thấy họ chẳng yêu thương gì đám học trò chúng tôi, và cũng chẳng yêu thương gì chính họ hay bản thân cuộc đời. Không giống như những ông thầy Mỹ, lúc nào cũng tỏ ra thân thiện, và rất có ý thức, thực sự quan tâm về nghề nghiệp của họ, việc đầu tiên của họ là luôn luôn giúp cho chúng tôi hiểu và nhớ những bài học và phạt chúng tôi nếu không làm bài, và điều này làm cho chúng tôi thù ghét họ, vì cái tinh thần bàn giấy đó.
Những ông thầy người Mỹ hầu hết còn trẻ, và trong cơn hăng say dạy những học sinh Thổ như chúng tôi, họ cứ nghĩ chúng tôi ngây thơ và ngơ ngác hơn nhiều so với bản chất của chúng tôi. Sự hăng hái có tính chất tôn giáo của họ khi cố gắng giải thích những sự kỳ diệu của nền văn minh Tây phương khiến chúng tôi như bị mắc kẹt ở giữa tiếng cười và sự chán ngán, thất vọng. Một vài người trong số họ tới Thổ Nhĩ Kỳ với hy vọng dạy bảo những đứa trẻ thất học của một thế giới thứ ba nghèo khổ; hầu hết là những người tả phái sinh vào khoảng thập niên 1940, họ muốn đọc cho chúng tôi từ Brecht cho tới những phân tích kiểu Mác xít về Shakespeare; ngay cả khi dạy chúng tôi văn chương, họ vẫn cố gắng chứng tỏ cội nguồn của mọi cái ác là xã hội được cấu tạo bởi những con người tốt, nhưng đi vào một con đường lầm. Một ông thầy không ngừng thốt lên câu “Các bạn bị xô đẩy” khi nói về số phận một con người tốt, không chịu đầu hàng xã hội, vài học trò thích đùa của ông bèn lặp lại, “Vâng thưa thầy, thầy bị xô đẩy”, vị giáo sư dù có thông minh tài giỏi cỡ nào cũng không hiểu được, đây là trò chơi chữ giữa đám học sinh của ông, vì có một từ tiếng Thổ khi thốt lên nghe tương tự như từ “xô đẩy” trong tiếng Anh nhưng lại là một từ rất bậy; và thế là cả lớp bật lên cười, chúng tôi sự thực không có ý định chửi bới gì ông, nhưng quả là chúng tôi có một niềm thù oán đối với những ông thầy người Mỹ của mình. Cái sự chống Mỹ rụt rè của chúng tôi có cùng một bè với tâm trạng tả phái quốc gia chủ nghĩa của thời kỳ ấy, và điều này phiền rất nhiều tới các sinh viên sáng giá gốc gác vùng Anatolia của chương trình học bổng của trường. Những sinh viên này, phải trải qua những cuộc thi thật khó khăn mới được nhập học trong một ngôi trường đặc biệt như vậy, và hầu hết trong số họ là những học trò thông minh, xuất sắc, học rất chăm, từ những gia đình nhà quê nghèo khổ; trong lúc họ mơ ước về một nền văn hóa Mỹ và một miền đất tự do – trên tất cả, họ mơ tới một cơ hội được học tại một trườngĐại học Mỹ, và có thể nhờ đó mà định cư tại Mỹ – ngay cả như vậy, họ cũng bị rúng động bởi chiến tranh Việt Nam, và không thể thoát được lòng oán hận của họ, và thỉnh thoảng, không làm sao kiềm chế được cơn giận dữ của họ đối với người Mỹ. Giới trưởng giả Thổ và những đứa trẻ con nhà giàu bạn tôi không thấy xao động đặc biệt bởi tất cả những chuyện đó. Đối với họ, Học viện Robert chỉ là bước đầu về phía tương lai đang đợi chờ đợi họ, như là những giám đốc, hay chủ nhân của những công ty lớn lao nhất trong xứ sở, hay là các nhân viên Thổ của những hãng lớn của nước ngoài.
Tôi không chắc chắn gì về việc mình sẽ là thứ gì, nhưng nếu có người hỏi, tôi sẽ nói tôi ở lại Istanbul để học kiến trúc. Đây cũng không hẳn đúng là ý định của tôi, mà cả gia đình đã đi đến một sự thỏa thuận như vậy, trước đó một thời gian. Vì cũng có cái đầu không đến nỗi tệ như ông tôi, cha tôi, chú tôi, thành thử tôi có thể học ngành kỹ sư tại Đại học Kỹ thuật Istanbul, nhưng vì tôi lại có quan tâm đến hội họa nên toàn thể gia đình đi đến kết luận rằng sẽ thích hợp nếu tôi học kiến trúc, cũng ở trường dó. Tôi không nhớ ai là người đầu tiên áp dụng thứ logic đơn giản như trên vào vấn đề tương lai của tôi, nhưng thời gian tôi ở Học viện Robert thì điều đó đã được định đoạt rồi và tôi cứ thế chấp nhận như là của mình. Chưa bao giờ, dù chỉ một lần, tôi có ý định rời bỏ thành phố. Không hẳn là nợ nần gì với một tình yêu lớn nào đó với cái chốn mà tôi sinh sống, mà là quá ngần ngại không muốn rũ bỏ những thói quen, những căn nhà mà tôi đã sống, chúng làm tôi trở nên lười biếng, chẳng bao giờ muốn thử làm điều gì mới mẻ nào. Đúng vào thời kỳ đó, tôi khám phá ra mình là loại người có thể mặc cùng một thứ quần áo, ăn cùng những món ăn trong suốt hàng trăm năm mà chẳng hề cảm thấy buồn chán, chừng nào mà tôi còn có thể tạo ra cho mình những giấc mơ hung bạo, ở trong cõi riêng tư, là trí tưởng tượng của mình.
Vào thời gian đó, cha tôi là giám đốc Aygaz, một công ty dẫn đầu về khí propane ở Thổ Nhĩ Kỳ, bởi vậy, lâu lâu ông lại phải đi Büyükçekmece thanh tra các nhà kho mới hay các trạm cung cấp đang xây dựng tại Ambarlı. Và những buổi sáng Chủ nhật, ông thường kêu tôi lên chiếc xe Ford Taunus đời 1966, sau đó, cha tôi cho xe chạy dọc theo vịnh Bosphorus, hay đi mua một món đồ gì đó, hay đi thăm bà tôi. Ngồi trên xe, ông mở radio, nhấn ga, và trong những chuyến dã ngoại Chủ nhật như vậy, hai cha con bàn về ý nghĩa của cuộc đời, và việc tôi sẽ làm gì với cuộc đời của tôi.
Vào thập niên 1960 và đầu 1970, những phố chính của Istanbul rất vắng vẻ vào buổi sáng, và khi chúng tôi chạy qua những lối xóm trước đây tôi chưa từng nhìn thấy, chúng tôi nghe “nhạc nhẹ Tây phương” (The Beatles, Sylvie Vartan, Tome Jones, và đại loại như vậy) và cha tôi nói với tôi, điều đẹp nhất mà một con người có thể làm là sống theo ý mình – tiền bạc không được là mục đích, nhưng nếu hạnh phúc tùy thuộc vào nó, thì nó cũng có thể là phương tiện để đi đến mục đích – hay là, ông sẽ kể cho thằng con nghe về lần ông bỏ chúng tôi đi Paris, ở trong một khách sạn, lần đó, ông đã từng làm thơ, và còn dịch thơ của nhà thơ Valéry sang tiếng Thổ, nhưng nhiều năm sau, trong lúc ông du lịch Mỹ, cái va li chứa tất cả những bài thơ và dịch phẩm của ông đã bị mất cắp. Và khi tiếng nhạc nổi lên, hòa nhịp với phố xá, ông sẽ gia giảm câu chuyện của ông, chuyển qua thời kỳ beat – ông cho biết đã từng nhìn thấy Jean-Paul Sartre nhiều lần trên đường phố Paris vào thập niên 1950, về việc Nhà Pamuk ở Nişantaşı đã được xây cất ra làm sao, về thất bại của ông trong những vụ kinh doanh đầu tiên – và tôi biết tôi sẽ không thể nào quên những câu chuyện cha tôi kể cho tôi nghe trong những lần dã ngoại như vậy. Thỉnh thoảng, ông ngừng kể để chiêm ngưỡng phong cảnh bên ngoài, hay bóng dáng của một phụ nữ đẹp trên hè đường, và trong khi lắng nghe cha tôi truyền cho những lời khuyên bảo, những sự khôn ngoan dịu dàng và dễ hiểu, tôi đưa mắt nhìn quang cảnh của một buổi sáng mùa đông màu xám đang loáng thoáng hiện ra trên những khung chắn gió của chiếc xe hơi. Khi chiếc xe băng ngang cầu Galata, tôi chăm chú nhìn những lối xóm ở phía sau, nơi vẫn còn một số căn nhà bằng gỗ cố gắng trụ lại trong những con phố chật hẹp, những đám đông tiến về sân đá banh, hay đám khói bốc lên từ ống khói của chiếc rơ moóc kéo theo sau một đoàn thuyền chở than đi xuống con vịnh Bosphorus, tôi lắng nghe giọng nói khôn ngoan của cha tôi bảo rằng việc con người tuân theo những linh tính và đam mê của riêng mình là quan trọng đến thế nào; và nói cho cùng đời người thật ngắn ngủi; và thật tốt nếu con người hiểu ra mình muốn làm điều gì trong đời mình – và, thực ra, một người trải qua cuộc đời của mình để viết, vẽ có thể thưởng thức một cuộc đời sâu xa hơn, giàu có hơn – và trong khi tôi nuốt lấy những lời nói đó, chúng như hòa nhập vào những cảnh sắc mà tôi đang ngắm nhìn.
Thời gian cứ thế trôi, âm nhạc cứ thế tiếp tục, những phong cảnh đường phố cứ thế thay đổi cùng với xe chạy, rồi tới một lúc, tôi nghe cha tôi nói, “Mình quẹo vô đây nhé?” và những con phố rải sỏi như nhập vào thành con đường nhỏ hẹp phía trước mặt tôi, và tôi cảm nhận ra một điều, dù cho chúng ta không thể nào trả lời được những câu hỏi cơ bản của cuộc đời, điều đó không có nghĩa là chúng ta đừng bao giờ dặt ra những câu hỏi như vậy, và rằng thứ hạnh phúc thực sự ở trên cõi đời này, ý nghĩa thực sự của cuộc đời, chúng nằm ở đâu dó, ở những nơi chốn mà chúng ta chẳng bao giờ kiếm ra được, và có lẽ chẳng hề mong muốn tìm cho ra, nhưng – dù cho chúng ta loay hoay mầy mò tìm cho ra những câu trả lời, hay giản dị chỉ là lạc thú, xúc động sâu xa – thì sự theo đuổi, tìm kiếm đó quan trọng nhiều hơn là đích đến có lẽ chẳng bao giờ đạt được, sự tra hỏi, tìm kiếm đó cũng quan trọng như là những quang cảnh mà chúng ta nhìn thấy qua khung cửa kính chiếc xe hơi, căn nhà, chiếc phà. Cùng với thời gian, cuộc đời – cũng như âm nhạc, nghệ thuật, và những câu chuyện kể – cứ thế lên lên xuống xuống, và sau cùng chấm dứt, nhưng cho dù như vậy, về mãi sau này, chúng vẫn như còn sống cùng với chúng ta, trong những quang cảnh của thành phố đang trải dài trước mắt chúng ta, như những kỷ niệm của một giấc mơ.