Chương 35 Tình đầu
Bởi vì đây là một hồi ức, tôi phải giấu tên của nàng, và nếu như bằng việc gọi tên nàng ra đồng nghĩa với cung cấp một đầu mối theo kiểu các nhà thơ Đi văng, thì tôi cần gợi ý thêm là đầu mối này, như tất cả phần còn lại của câu chuyện của tôi, sẽ có thể khiến bạn lạc đường. Tên của nàng là Bông Hồng Đen trong tiếng Ba Tư, nhưng theo như tôi biết, chẳng có ai trên các bãi biển, nơi chiều chiều nàng vô tư nhảy xuống tắm, và chẳng có ai trong số bạn học của nàng ở trường trung học Pháp, để ý đến chuyện này – ấy là vì, mớ tóc dài long lanh sáng ngời của nàng không phải màu đen mà là màu hạt dẻ, và cặp mắt nâu của nàng cũng chỉ sẫm hơn một chút so với màu tóc. Khi tôi tỏ vẻ khôn lanh nói với nàng, tên nàng có nghĩa là Bông Hồng Đen, nàng nhướng mày, nàng luôn làm như vậy mỗi khi đột nhiên trở nên nghiêm túc, và, hơi trề môi ra, nàng nói rằng dĩ nhiên nàng biết tên của nàng có nghĩa là gì, và nàng nói thêm, tên của nàng được đặt theo tên của bà nàng, một phụ nữ người Albania.
Tuy nhiên, theo lời mẹ tôi, mẹ của cô gái (người bị mẹ tôi gọi là “cái bà ấy”) chắc hẳn đã lấy chồng rất sớm, bởi vì khi anh tôi được năm tuổi, còn tôi lên ba, vào những buổi sáng mùa đông mẹ tôi đưa hai anh em chúng tôi tới công viên Maçka ở Nişantaşı, thì mẹ tôi đã nhìn thấy cô bé con cùng bà mẹ, trông chẳng khác chi một thiếu nữ, và cô thiếu nữ đã làm mẹ này đang dỗ cô bé con ngủ trong một cái xe đẩy thật lớn. Mẹ tôi có lần nói rằng người bà Albania của cô bé xuất thân từ hậu cung của một vị pasha, người hoặc đã làm một điều gì hết sức bậy bạ trong những năm đình chiến, hoặc tự hạ nhục chính mình khi chống đối Atatürk, nhưng hồi ấy tôi chẳng có một chút quan tâm nào tới những biệt thự có từ thời Ottoman đã bị đốt rụi xung quanh chúng tôi hay các gia đình đã từng ở trong đó, cho nên tôi chẳng nhớ chính xác chuyện này ra sao. Cha tôi thì nói, bằng một cái giọng chẳng có vẻ chi thù nghịch hay khinh khi, cha của cô bé Bông Hồng Đen đã nhanh chóng trở nên giàu có trong thời kỳ Đệ nhị Thế chiến nhờ các vụ làm ăn, chuyển nhượng với những công ty Hoa Kỳ và Hà Lan mà ông là một người đại diện, và nhờ những nhân vật có thế lực trong chính quyền mà ông quen biết.
Tám năm sau cuộc gặp gỡ của chúng tôi tại công viên, khi gia đình tôi mua một căn nhà ở khu Bayramoğlu, một nhà nghỉ mùa hè ở phía Đông thành phố rất thời thượng đối với những nhà giàu mới nổi vào thời kỳ thập niên 1960 và 1970, tôi có thể nhìn thấy nàng đi xe đạp. Vào thời hoàng kim của khu vực này, khi nó còn rất nhỏ và vắng người, vào những buổi đẹp trời, tôi thường tắm biển, hay dùng thuyền đi ra xa phía bên ngoài, thả lưới, bắt cá thu, cá song, hay chơi đá banh trên bãi biển, và vào những buổi chiều mùa hè, khi tôi đã được mười sáu tuổi, khiêu vũ với mấy cô gái. Tuy nhiên, sau đó, khi học xong trung học và đã bắt đầu ngành kiến trúc, tôi có thói quen ở tầng trệt để vẽ và đọc. Đám bạn con nít nhà giàu của tôi gọi bất cứ ai đọc bất cứ một cuốn sách nào ngoài sách giáo khoa là một nhà trí thức, hay một nhân vật mờ ám bị “bủa vây bởi những mặc cảm”. Lối nói xấu thứ nhì kia được họ áp dụng một cách bừa bãi – nó có thể còn có nghĩa là bạn có những vấn đề tâm lý, hay cũng có thể là bạn bị lo âu về vấn đề tiền bạc. Tôi thấy lo lắng hơn khi bị dán cho cái nhãn trí thức, bởi vậy, hy vọng thuyết phục được đám bạn rằng tôi không phải là một thứ hợm hĩnh và bất lực, tôi bắt đầu nói với chúng rằng tôi đọc – Woolf, Freud, Sartre, Mann, Faulkner của tôi – “chỉ để vui thôi mà”, thế nhưng đám đó vẫn hỏi tại sao tôi lại gạch chân nhiều đoạn thế kia.
Chính tai tiếng trên đã khiến Bông Hồng Đen để ý đến tôi, vào cuối một mùa hè – điều này xảy ra mặc cho sự kiện, cả mùa hè đó, hay mọi mùa hè trước, khi tôi dành nhiều thì giờ chơi với đám bạn bè hơn, hai đứa chúng tôi gần như chẳng hề để ý đến nhau. Khi tôi cùng đám bạn vào giữa đêm khuya kéo nhau đi sàn nhảy disco, như là một bầy con trai hạnh phúc, hay chạy xe (đôi khi đụng xe), trên chiếc Mercedes, Mustang hay BMW của một người nào đó để tới Đại lộ Bağdat (khi đó được gọi là Đại lộ Công viên của thành phố Á châu, chỉ cách chỗ ở của chúng tôi chừng nửa giờ), hay là dùng ghe máy chạy ra một mỏm đá trơ trọi, bày ra những hàng vỏ chai soda hay rượu vang, rồi dùng súng săn, thứ thật ngon, của mấy ông bố giàu có, chúng tôi chơi trò bắn bia, làm các cô gái phải hoảng sợ (khi họ hét lên, đám con trai chúng tôi sẽ bảo họ im lặng); hay khi chúng tôi vừa nghe Bob Dylan và The Beatles vừa chơi bài poker và Monopoly, Bông Hồng Đen và tôi chẳng ai thèm để ý đến ai.
Đám thanh thiếu niên ồn ào ấy dần dần rã ra khi mùa hè kết thúc, và rồi những cơn bão chợt tới với thành phố, quất túi bụi lên bờ biển vào mỗi tháng Chín, luôn đập vỡ một hai chiếc thuyền máy và đẩy những chiếc thuyền buồm, ghe máy vào chỗ nguy hiểm. Trong khi mưa cứ thế trút xuống, Bông Hồng Đen, lúc này đã mười bảy tuổi, chẳng biết làm gì cho qua thì giờ, bèn ghé thăm căn phòng nơi tôi thường ngồi vẽ, được tôi gọi là studio những khi tự coi mình là quá quan trọng. Bạn bè tôi cũng thỉnh thoảng ghé, cũng bày đặt thử tài hội họa với giấy và cọ hoặc săm soi những cuốn sách của tôi với cái vẻ nghi ngờ thường lệ, cho nên chuyện này cũng chẳng có gì là đặc biệt kỳ lạ. Như hầu hết đám chúng tôi sống ở Thổ Nhĩ Kỳ thời kỳ này, giàu hay nghèo, nam hay nữ, Bông Hồng Đen cũng cần chuyện vãn để cho qua ngày, và đỡ buồn.
Vào lúc bắt đầu, chúng tôi chia sẻ với nhau ba chuyện ngồi lê đôi mách cuối cùng của mùa hè vừa qua – đứa nào mê đứa nào, và đứa nào vì vậy mà ghen đến điên lên – dù hè năm ấy tôi thực sự chẳng để ý tới mấy chuyện đó. Vì tay tôi dính sơn nên đôi khi nàng giúp tôi pha trà, hay mở một tuýp màu trước khi trở về chỗ nàng hay ngồi, ở một góc phòng, và đá văng đôi giày ra khỏi chân, nàng nằm dài ra đi văng, lấy một cánh tay làm gối. Một bữa, không nói với nàng, tôi đi một đường ký họa cảnh nàng nằm dài trên đi văng. Tôi nhận thấy nàng có vẻ thích, và thế là lần tới, tôi chơi thêm một bức ký họa nữa. Một hôm, khi tôi nói là tôi sẽ vẽ nàng, nàng hỏi, “Anh muốn em ngồi như thế nào?” như một ngôi sao nhỏ chưa từng bao giờ đứng trước máy quay phim, run rẩy không biết để tay để chân ở đâu.
Khi tôi ngắm nghía cái mũi dài của nàng để vẽ cho thật tới, một nụ cười thấp thoáng trên miệng nàng; trán nàng mới cao làm sao, dáng nàng dong dỏng, đôi chân dài màu nắng hun, nhưng khi đến thăm tôi, nàng mặc một cái váy dài bó sát người thật nhã, của bà nàng truyền lại, thành thử tôi chỉ nhìn thấy đôi bàn chân thon thon của nàng. Trong khi tôi phác họa, khi tôi nghiên cứu những làn cong mềm mại của hai bầu vú nhỏ của nàng và làn da trắng đến lạ thường ở nơi cổ cao, một cái bóng của ngượng ngùng bỗng nhẹ nhàng lướt qua khuôn mặt nàng.
Vào những lần đầu nàng đến thăm, chúng tôi nói chuyện thật nhiều, và nàng là người hay nói. Vì tôi nhìn một chút mây mù ở trong đôi mắt, trên đôi môi nàng và nói, “Đừng sầu khổ thế chứ!” thế là nàng bèn nói, một lối nói thẳng thừng tôi chưa từng gặp, về những trận cãi cọ giữa cha mẹ nàng và những trận thư hùng liên miên giữa bốn ông em trai; nàng kể gia đình nàng đôi khi khốn khổ vì những đòn trừng phạt của ông bố – cấm túc, cấm đi thuyền máy, những cái tát – và nỗi buồn của bà mẹ khi ông bố chỉ lo săn đuổi những người đàn bà khác; nàng cũng nói nàng kể cho tôi những chuyện đó vì nàng biết mẹ nàng và mẹ tôi là hai bạn chơi bài, và cũng đã từng than thở với nhau nhiều lần, nàng biết cha tôi cũng mê chạy theo gái – và khi nói những chuyện ấy, nàng nhìn thẳng vào mắt tôi.
Dần dần, hai đứa chúng tôi chìm vào im lặng. Nàng có thể bước thẳng tới chỗ nàng thường hay ngồi, hay tạo dáng làm mẫu (cách thức chịu ảnh hưởng nặng nề của Bonnard), hoặc mở ra coi một cuốn sách tình cờ có đó, và nằm đọc trên đi văng, lâu lâu lại đổi tư thế. Sau này, dù vẽ hay không vẽ, thì cũng đã thành lệ: Nàng gõ cửa, đi vô phòng, gần như không nói gì, tới nằm trên đi văng ở góc phòng, vừa đọc sách vừa làm mẫu cho tôi vẽ, hoặc đôi khi nàng nhìn tôi vẽ nàng qua khóe mắt. Tôi còn nhớ, sáng nào cũng vậy, làm việc được một chút là tôi tự hỏi khi nào thì nàng tới, và tôi cũng nhớ ít khi nàng bắt tôi phải chờ đợi lâu nhưng trên môi nàng luôn có nụ cười ngượng ngùng như thể để xin lỗi khi nàng tới nằm tại chỗ quen thuộc của mình.
Một trong các đề tài của những lần trò chuyện hiếm hoi của chúng tôi là tương lai. Theo nàng, tôi là một người có tài và cần cù làm việc cho nên chắc chắn sẽ trở thành một họa sĩ nổi tiếng thế giới – hay nàng nói một họa sĩ Thổ Nhĩ Kỳ nổi tiếng? – và nàng sẽ cùng bạn bè người Pháp của nàng tới dự ngày khai mạc rất đông người của phòng tranh của tôi tại Paris, và sẽ hãnh diện nói với mọi người, tôi là “bạn thời trẻ thơ” của nàng.
Một buổi chiều, chúng tôi rời xưởng họa đã chập choạng tối, và cùng nhau đi bộ lần đầu tiên, mượn cớ ngắm thành phố khi cơn mưa vừa tạnh làm bầu trời sáng rực lên, trong hẳn ra, và nhìn cây cầu vồng cơn mưa bỏ lại đằng sau nó, ở phía bên kia bán đảo; chúng tôi đi thật lâu. Tôi nhớ là chẳng ai cất tiếng nói. Chúng tôi cũng ngài ngại, sợ bị dăm ba người quen còn ở lại trong khu nhà nghỉ mát giờ đãvắng hoe nhìn thấy, hoặc đụng đầu các bà mẹ của chúng tôi. Nhưng điều làm cho cuộc du ngoạn tiên của hai đứa chúng tôi “không thành công“ trọn vẹn không phải là chuyện cây cầu vồng biến mất trước khi chúng tôi kịp ngắm nó, mà là sự căng thẳng ngấm ngầm giữa hai chúng tôi. Đó cũng là lần đầu tiên, trong khi đi sóng đôi trên đường phố, tôi nhận ra cổ nàng mới cao làm sao, và dáng đi của nàng mới duyên dáng làm sao.
Vào buổi chiều thứ Bảy sau cùng của hai đứa, chúng tôi quyết định cùng đi ra ngoài, không nói cho bất cứ ai, trong số một nhúm bạn bè tò mò, không quan trọng còn ở lại đây. Tôi hỏi mượn xe của cha tôi, và cảm thấy thật là bồn chồn. Nàng có trang điểm, mặc một chiếc váy rất ngắn, và mùi nước hoa đáng yêu vẫn thoang thoảng trên xe một thời gian sau đó. Nhưng trước khi tới chỗ vui chơi mà chúng tôi định đến, tôi đã cảm nhận được cái bóng ma từng làm cho chuyến đi dạo lần trước trở nên không thành công. Sàn nhảy disco tuy chỉ có chừng một nửa số khách, nhưng cũng rất ồn, trong khi chúng tôi cố tóm bắt lại không khí tĩnh lặng êm đềm mà chúng tôi sung sướng tận hưởng tại studio của tôi để bình tĩnh trở lại – tới lúc đó tôi mới nhận ra sự tĩnh lặng ấy mới sâu sắc làm sao.
Tuy nhiên, chúng tôi vẫn khiêu vũ theo điệu slow. Vì đã thấy những cặp khác làm như vậy, tôi vòng tay qua lưng nàng, ôm nàng thật sát vào tôi, như do bản năng thúc đẩy, và tôi nhận ra tóc nàng đượm mùi trái hạnh. Tôi yêu những cử động nhẹ của môi nàng khi nàng ăn và khi có gì lo lắng, trông nàng thật giống một con sóc.
Vào lúc chuẩn bị đưa nàng về nhà, tôi phá vỡ sự im lặng trên xe bằng câu nói, “Em có muốn anh vẽ em bây giờ không?” Tuy không có vẻ sốt sắng, nàng vẫn đồng ý, nhưng khi chúng tôi tay trong tay bước vô khu vườn tối và nhìn thấy có ánh đèn trong studio – có ai ở đó phải không? – thì nàng thay đổi ý định.
Nàng đến thăm tôi cả ba buổi chiều ba ngày sau đó: nằm dài trên đi văng – nhìn tôi vẽ, nhìn vô những trang sách đang cầm trên tay, nhìn biển hơi gợn sóng ở phía bên ngoài – rồi rời khỏi căn phòng, lặng lẽ, chẳng quấy rầy ai, y như khi tới.
Tôi không hề nghĩ đến chuyện liên lạc với nàng tại Istanbul vào tháng Mười năm ấy. Những cuốn sách mà tôi say mê đọc, những bức họa mà tôi hăm hở vẽ, đám bạn cấp tiến tả phái, những tay Mác xít thanh toán lẫn nhau ở hành lang đại học, những kẻ quốc gia chủ nghĩa, và cảnh sát – tất cả làm tôi xấu hổ về đám bạn mùa hè của tôi, và khu nhà ở giàu sang của chúng với hàng rào kẽm gai nơi cổng ra vào cùng đám nhân viên bảo vệ.
Nhưng, một tối tháng Mười một, sau khi máy sưởi trung tâm đã bật, tôi gọi điện thoại đến nhà nàng. Khi mẹ nàng nhấc máy, tôi cúp máy liền, không trả lời. Ngày hôm sau, tôi tự hỏi tại sao lại thực hiện cú phôn kỳ cục đó. Tôi không nhận ra là mình đã tương tư nàng, và tôi cũng chưa khám phá ra điều mà tôi cứ phải học đi học hoài, mọi lần nó xảy ra: Tôi đã bị nàng hớp mất hồn vía.
Một tuần lễ sau, cũng vào một buổi tối âm u lạnh cứng người, tôi lại điện thoại cho nàng. Lần này, nàng trả lời. Tôi nói thẳng một lèo, theo kiểu tự phát, nhưng thực sự là đã được học đi học lại, nhẩm lên nhẩm xuống không biết bao nhiêu lần: Em còn nhớ bức họa anh vẽ em vào những ngày cuối cùng của mùa hè vừa rồi? Liệu em có thể ghé vào một buổi chiều nào đó, để hoàn tất bức họa?
“Em có phải vận cùng bộ đồ hồi ấy không?” nàng hỏi
Tôi chưa hề nghĩ đến điều này. “Có, em cứ vận bộ đồ đó nhé,“ tôi nói.
Vậy là thứ Tư tiếp theo, tôi tới cổng trường Dame de Sion, nơi ngày xưa mẹ tôi cũng đã từng là nữ sinh, để đón nàng; tôi đứng cách xa đám cha mẹ, đám nấu bếp, đám đày tớ đứng gần cổng, và như mấy thanh niên khác, tôi cũng kiếm một gốc cây để đứng lấp ló đợi nàng. Hàng trăm cô gái ùa ra phía cổng, tất cả vận đồng phục nữ sinh trường Thiên chúa giáo Pháp – váy màu xanh hải quân với áo sơ mi trắng – và khi nàng ló ra từ đám đông, trông nàng như muốn rụt lại; tóc buộc ra phía sau, tay ôm mớ sách nhà trường, một tay xách cái túi bên trong chắc có bộ đồ tính mặc làm mẫu cho tôi vẽ.
Khi nàng biết tôi không tính đưa nàng về nhà để mẹ tôi mời nàng uống trà và ăn bánh ngọt, mà là tới căn hộ ở Cihangir mà mẹ tôi cho tôi sử dụng làm studio, nàng có vẻ bồn chồn. Nhưng khi tôi bật lò sưởi ở đó và lôi ra cái đi văng giống như chiếc đi văng nàng đã từng nằm tại căn nhà mùa hè, và ngó dáng điệu của tôi có vẻ rất “nghiêm túc“ về chuyện vẽ tranh, nàng thoải mái ngay, thay bộ váy mùa hè và nằm dài trên đi văng.
Đúng là trong cung cách như thế đó, không hề tự tuyên bố đó là một câu chuyện tình, mà mối quan hệ của hai đứa chúng tôi, một nghệ sĩ mười chín tuổi và người mẫu còn trẻ hơn, bắt đầu bước theo nhịp của một thứ âm nhạc thật lạ lùng với những nốt mà ngay cả chúng tôi cũng chẳng thể nào hiểu được. Vào lúc bắt đầu, cứ hai tuần một lần nàng tới studio của tôi ở Cihangir, sau đó là tuần một lần. Tôi khởi sự vẽ những bức họa khác, cùng trong một thần thái như vậy (một cô gái nằm tựa đầu lên tay trên đi văng). Thời gian này chúng tôi còn nói chuyện ít hơn so với những ngày cuối hè. Về phần tôi, tôi không muốn nói cho cô người mẫu xinh đẹp buồn bã về những vấn đề của tôi, sợ làm hư sự trong trắng tuyệt ngần của cái thế giới thần tiên vừa mở ra đó; cuộc đời thực của tôi đã quá chật cứng, nào là những buổi học kiến trúc, nào là kế hoạch trở thành họa sĩ, ngoài ra, còn những cuốn sách. Không phải tôi sợ nàng sẽ chẳng hiếu được, tôi chỉ muốn hai thế giới của tôi tách hẳn nhau ra. Tôi hết còn để ý đến đám bạn bè mùa hè và bạn học trung học, chúng đang sửa soạn để thay thế mấy ông bố của chúng làm chủ các nhà máy, nhưng – đến giờ thì tôi không còn giấu được điều này với chính mình nữa – được nhìn thấy Bông Hồng Đen mỗi tuần một lần quả là muôn vàn hạnh phúc.
Vào những ngày mưa, cũng giống cái hồi tôi còn ở căn hộ Cihangir này làm khách nhà bà cô tôi, những chiếc xe bán tải và xe Mỹ leo con dốc Gà không thể bay, tiếng bánh xe nghiến trên mặt đường sỏi, ngồi trong căn phòng, chúng tôi có thể nghe thấy. Nhiều khi sự im lặng kéo thật dài giữa chúng tôi, nhưng vẫn thật dễ chịu, trong khi tôi chăm chú vẽ, và đôi khi mắt chúng tôi tìm gặp nhau. Vào lúc bắt đầu, vì nàng vẫn còn khá trẻ con, vẫn sung sướng với một việc như vậy, nàng mỉm cười, rồi sợ mình làm hỏng dáng làm mẫu, nàng vội khép môi lại và đôi mắt nâu sẫm của nàng nhìn chăm chăm vào mắt tôi với cùng sự im lặng ấy, trong một lúc rất lâu. Vào cuối những đợt im lặng lạ lùng như vậy, khi tôi chăm chú nhìn nàng, qua ánh mắt của tôi, nàng đoán ra được ấn tượng của nàng lên tôi, và trong khi tiếp tục nhìn sâu vào mắt nàng, không nháy mắt, tôi hiểu được thông qua làn môi rung động của nàng – có vẻ như nàng không thể kìm hãm được nụ cười được lâu – rằng nàng thích cái nhìn chăm chú của tôi. Một lần, trong khi cười, cái nụ cười nửa hạnh phúc, nửa rầu rĩ ấy cũng làm nụ cười hiện ra trên môi tôi (cây cọ lúc này lơ lửng trên mặt vải, như thể bị bỏ quên), cô người mẫu tuyệt trần của tôi bị thôi thúc nói ra lý do khiến nàng cười – và phá bỏ mất dáng nằm làm mẫu.
“Em thích anh nhìn em như vậy.“
Quả thực, điều này không chỉ giải thích tại sao nàng cười, mà cả việc tại sao nàng tới căn hộ đầy bụi ở Cihangir này mỗi tuần một lần. Vài tuần lễ sau đó, một lần, khi nhìn thấy vẫn nụ cười ấy đang nở ra trên môi nàng, tôi buông cây cọ, đến ngồi bên nàng, và, như tôi đã mơ mãi điều này suốt mấy tuần lễ liền, tôi liều lĩnh hôn nàng.
Cơn mưa bão ngoài trời như kéo cả hai chúng tôi cùng nhập vào với nó, và bầu trời trời tối đen, căn phòng nhập nhoạng càng làm cho chúng tôi thêm thoải mái. Nằm trên đi văng, chúng tôi có thể nhìn thấy những đợt đèn pha quét dò đường của những con tàu đang đi trên mặt nước đen kịt của vịnh Bosphorus phản chiếu trên những bức tường của căn phòng.
Chúng tôi tiếp tục nghi lễ gặp gỡ như thường lệ. Vào lúc này tôi thật hạnh phúc với cô người mẫu của mình, nhưng tại sao tôi kìm giữ những nỗi xúc động mà tôi sẽ thể hiện thật hoang phí vào các tình huống giống như vậy trong tương lai: những điều nhỏ nhặt ngọt ngào, những ghen tuông hờn giận, những sợ hãi, sự vụng về, cùng các phản ứng và thái quá về xúc cảm khác? Bởi vì tôi không cảm thấy chúng. Có lẽ bởi vì mối quan hệ nghệ sĩ–người mẫu của chúng tôi – điều làm chúng tôi nhận ra nhau, và trói buộc với nhau – đòi hỏi sự im lặng. Hoặc có lẽ bởi vì – tôi nghĩ tới điều này với một nỗi xấu hổ trẻ con nằm trong góc tối tăm nhất của tâm trí tôi – tôi biết là nếu lấy nàng, tôi sẽ trở thành một ông chủ hãng, không phải một nghệ sĩ.
Sau chín thứ Tư của im lặng vẽ tranh và im lặng làm tình, một nỗi lo đơn giản hơn xuất hiện giữa anh họa sĩ hạnh phúc và cô người mẫu. Mẹ tôi, không khi nào sao nhãng quá lâu việc để ý đến ông con trai, một bữa tới căn hộ dùng làm studio ở Cihangir, mà đồng thời bà cũng dùng làm kho chứa đồ đạc cũ; ngắm mấy bức tranh của tôi, ảnh hưởng của Bonnard không ngăn cản bà dễ dàng nhận ra cô người mẫu xinh đẹp. Mỗi lần tôi hoàn tất một bức tranh, người yêu tóc màu hạt dẻ lại hỏi, làm tôi tan nát trái tim: “Trông có giống em không?“ (chuyện đó đâu thực sự quan trọng, gã họa sĩ trẻ ranh mãnh sẽ nói như vậy), bởi vậy dù có thể là cả hai chúng tôi đều hài lòng vì mẹ tôi đã nhận ra nàng – điều này trả lời cho câu hỏi của nàng, một lần cho tất cả – nhưng cùng lúc, chúng tôi lo lắng là mẹ tôi sẽ gọi điện thoại cho mẹ nàng, hoan hỉ cho biết hai đứa chúng nó rất thân mật với nhau. (Về phần mẹ của Bông Hồng Đen, bà cứ nghĩ là thứ Tư nào cô con gái của mình cũng theo lớp học về kịch tại tòa lãnh sự Pháp.) Xét về ông bố hay nóng giận, tốt nhất là thôi đừng nhắc gì tới ông.
Chúng tôi liền lập tức ngưng những cuộc gặp mặt vào thứ Tư. Sau đó một ít lâu, chúng tôi bắt đầu hẹn nhau vào những ngày khác, buổi chiều khi nàng tan học sớm, hay một vài buổi sáng khi tôi trốn học. Bởi vì mẹ tôi tiếp tục thực hiện những chuyến viếng thăm bất thình lình cái studio của tôi ở Cihangir, bởi vì chúng tôi không còn đủ thì giờ để vẽ và để tận hưởng những quãng im lặng dài nữa, và bởi vì tôi cho một bạn cùng lớp bị cảnh sát truy tìm trốn ở đó – làm sao không giúp đỡ cho được, vì đây là một tội ác chính trị – chúng tôi ngưng không tới căn hộ Cihangir. Thay vì vậy, chúng tôi đi bộ bên nhau, qua những con phố Istanbul, tránh những khu phố quen như Nişantaşı,Beyoğlu, Taksim, và tất cả những chỗ khác, những chỗ có thể gặp người quen, mà chúng tôi gọi là “mọi người“; chúng tôi hẹn gặp nhau tại Taskim, từ trường Dame de Sion tại Harbiye đi tới chỗ hẹn mất bốn phút, cũng bằng thời gian tôi đi bộ từ đại học của tôi ở Taşkışla – và từ đó, chúng tôi dùng xe buýt đi tới những nơi xa hơn.
Chúng tôi bắt đầu bằng quảng trường Beyazıt, nơi tiệm cà phê Çınaraltı vẫn giữ được dáng vẻ cũ của nó (ngay cả sau khi những cuộc chính biến quanh khu cổng ra vào của Đại học Istanbul đã trở nên quen thuộc, những anh bồi của tiệm cà phê cũng chẳng mất đi vẻ điềm tĩnh của mình); chỉ tay về phía Thư viện Quốc gia Beyazıt, tôi bốc phét với nàng rằng trong thư viện có “một ấn bản của mọi cuốn sách đã từng được xuất bản tại Thổ Nhĩ Kỳ“; tôi đưa nàng tới Chợ Sách Cũ Sahaflar, nơi vào những ngày mùa đông giá lạnh những ông bán sách già ngồi thu lu bên lò sưởi gaz hoặc điện trong cửa tiệm nhỏ của mình; tôi chỉ cho nàng coi những căn nhà bằng gỗ mà nước sơn đã loang lổ không được tu bổ lại ở Vezneciler, những điêu tàn Byzance, và những con phố hai bên trồng sung; và tôi đưa nàng tới Vefa Boza Shop, nơi chú tôi thỉnh thoảng đưa chúng tôi tới vào những buổi chiều mùa đông để thưởng thức món giải khát nổi tiếng boza làm từ kê lên men, ở đó tôi chỉ cho nàng thấy cốc uống boza của Atatürk được cho vào khung treo trên tường. Việc một cô gái “Âu hóa” giàu có sống ở khu Nişantaşı, biết hầu hết các tiệm thời trang và những nhà hàng nổi tiếng nhất của Bebek và Taksim, lại quan tâm nhiều nhất tới một cái cốc uống boza chưa được rửa từ ba mươi lăm năm nay, trong số tất cả những gì tôi chỉ cho cô tại cái thành phố Istanbul của những phố nhỏ buồn bã cũ kỹ nghèo nàn bên kia Mũi Vàng, không hề làm tôi thấy buồn bực. Tôi thật sự hài lòng có một người bạn đường như nàng, hai tay đút túi áo choàng như tôi, và thích đi thật nhanh như tôi, nhìn sự vật một cách thật là chi li, cẩn thận, y như tôi đã từng, hai ba năm trước đó, khi lần đầu tiên tự mình thám hiểm cũng những khu xóm này. Tôi cảm thấy gần gũi với nàng hơn bao giờ hết, và dạ dày của tôi quặn đau, như một triệu chứng khác của tình yêu.
Như tôi, thoạt đầu nàng cũng bị xao xuyến vì những căn nhà bằng gỗ từ hàng bao thế kỷ của những con phố nhỏ ở khu Süleymaniye và Zeyrek, trông như thể chỉ cần một cơn rung chuyển nhỏ nhất là sẽ sụm xuống. Nàng cũng ngỡ ngàng bởi vẻ trống trơn của Bảo tàng Hội họa và Điêu khắc, chỉ cách vài phút đi bộ từ trạm dolmuş ngay bên kia trường học của nàng. Những vòi phun nước công cộng bỏ hoang của những lối xóm nghèo khổ; những ông già râu trắng đầu đội mũ fez ngồi trong tiệm cà phê ngắm nhìn phố xá; những bà cô già khằn ngồi ở cửa sổ, nhìn soi mói người qua đường như những kẻ buôn bán nô lệ; dân lối xóm chỉ trỏ, bàn tán coi chúng tôi là thứ người ở đâu tới, và làm gì, bằng một giọng oang oang vọng đến tận chỗ chúng tôi (Anh ơi, hai người kia là như thế nào? Họ là anh em, đúng không? Coi kìa, hai anh em đi lộn đường rồi) – tất cả những điều này đánh thức ở nơi nàng cùng một nỗi buồn bã, xấu hổ như ở bản thân tôi. Mấy đứa trẻ đuổi theo chúng tôi để bán đồ lưu niệm, hay chỉ để trò chuyện (Du khách, du khách, tên chi?), nhưng nàng chẳng hề bực bội như tôi, hay hỏi, Tại sao chúng coi chúng ta là người nước ngoài? Cho dù vậy, chúng tôi cũng tránh khu Chợ Vòm sầm uất hay là khu chợ Nuruosmaniye. Khi hai chúng tôi thèm nhau quá mức đến không thể chịu đựng được – nàng không muốn trở lại studio ở Cihangir để vẽ nữa – chúng tôi quay trở lại Beşiktaş, nơi chúng tôi thường tới vì có Bảo tàng Hội họa và Điêu khắc, và lên chuyến phà đầu tiên (54 İnşirah), đi xa mãi xuống phía dưới vịnh Bosphorus, đi xa tới chừng nào thời gian còn cho phép, và khi ở trên phà, chúng tôi ngắm những rừng cây rụng hết lá cùng với mùa thu ở hai bên vịnh, nhìn mặt biển run rẩy ở dưới chân các yalı khi gió bấc chợt về, những đợt nước ở trên mặt biển đua nhau xao động cùng với gió, và cùng lúc, thay đổi màu sắc, khi gió xô đẩy những đám mây qua bầu trời, và ngắm những khu vườn thông trải dài xung quanh trên bờ vịnh. Những năm sau này, tôi tự hỏi tại sao hai đứa chúng tôi không hề nắm tay nhau trong những lần đi tản bộ hay những chuyến dạo biển, và tìm được rất nhiều lý do: (1) Chúng tôi là những đứa trẻ rụt rè tìm đến những con phố của Istanbul không phải để cảm nhận tình yêu mà là để giấu giếm nó; (2) những cặp tình nhân nắm tay nhau trên đường phố giữa chỗ đông người cảm thấy hạnh phúc và muốn mọi người nhìn thấy họ đang hạnh phúc, trong khi tôi, mặc dù muốn chấp nhận chúng tôi hạnh phúc, nhưng lại sợ cầm tay nhau như thế thì có vẻ hời hợt; (3) loại cử chỉ hạnh phúc như thế sẽ biến hai chúng tôi thành những du khách, những người tới các khu vực điêu tàn đổ nát nghèo khổ bảo thủ này chỉ để hưởng “lạc thú cẩu thả“; và (4) sự buồn bã của xóm nghèo, của một Istanbul điêu tàn, hoang phế, đã từ lâu nhận chìm chúng tôi vào trong nó.
Khi nỗi buồn trong tôi quá nặng nề, tôi sẽ chạy vội về Cihangir để vẽ một bức tranh tồn tại song song với những cảnh trí Istanbul ấy theo một cách nào đó, mặc dù tôi không biết bức tranh của mình sẽ trông như thế nào. Nhưng chẳng mấy chốc, tôi nhận ra cô người mẫu xinh đẹp của tôi đã tìm một phương thuốc khác hẳn tôi để điều trị nỗi buồn của nàng, và đó là lần vỡ mộng đầu tiên của tôi về nàng.
“Hôm nay em cảm thấy thật là tệ,“ nàng nói, khi chúng tôi gặp nhau tại Taksim. “Anh đưa em tới khách sạn Hilton uống trà được không? Nếu hôm nay mà đi tới một xóm nghèo nào chắc là em không thể nào chịu nổi. Hơn nữa, bữa nay em không có nhiều thì giờ.“
Bữa đó, tôi mặc một chiếc áo khoác kiểu nhà binh, thứ đám sinh viên tả phái hay mặc dạo ấy; tôi lại chẳng cạo râu, và giả như đám gác cửa khách sạn sang trọng này cho tôi vô, chắc gì tôi đã có tiền để trả, dù là chỉ uống trà? Tôi lết chân đi đến khách sạn Hilton. Ở hành lang, một người bạn thời thơ ấu của cha tôi nhận ra chúng tôi, chiều nào ông cũng đến đây uống trà, vờ vịt rằng ông từng ở Âu châu, và sau khi bắt tay người yêu buồn bã của tôi theo một cách thức thật giả tạo, ông ta nói nhỏ vào tai tôi rằng cô thiếu nữ bạn gái của cháu đáng yêu quá. Hai chúng tôi đang có việc phải lo thành thử chẳng ai để ý lắm đến ông ta.
“Cha em bắt em nghỉ học để tống em đi Thụy Sĩ,” người yêu của tôi nói, một giọt nước mắt từ con mắt thật lớn của nàng rơi xuống chén trà đang cầm trên tay.
“Tại sao?“
Họ đã biết về chúng tôi. Tôi có hỏi lại nàng chúng tôi ở đây có nghĩa là ai? Những đứa con trai nàng đã yêu trước tôi có gây nên sự tức giận như tôi gây ra bây giờ ở nơi cha nàng? Tại sao tôi lại quan trọng như vậy so với chúng? Tôi không nhớ liệu mình có hỏi nàng những câu như vậy không. Nỗi sợ và tính ích kỷ đã làm trái tim tôi trở nên mù lòa, và tôi quá lo lắng đến chuyện tự bảo vệ bản thân. Tôi sợ mất nàng – trong khi vẫn mơ hồ nhận ra một nỗi đau lớn đang chờ đợi tôi – nhưng tôi cũng cảm thấy giận dữ, vì giờ đây nàng từ chối nằm dài xuống đi văng làm người mẫu cho tôi vẽ, và cho tôi làm tình với nàng.
“Chúng mình có thể nói chuyện dễ dàng hơn ở Cihangir vào thứ Tư,“ tôi nói. “Nuri đã rời đi rồi. Nơi đó bây giờ không còn ai.“
Nhưng lần tới gặp nhau chúng tôi đến Bảo tàng Hội họa và Điêu khắc. Chúng tôi làm như vậy như là một thói quen, bởi vì từ trường của nàng đến đó rất nhanh, và ở đó cũng thật dễ kiếm ra một hành lang vắng vẻ để hôn nhau. Trên tất cả, nơi đó tránh cho chúng tôi cái vẻ ảm đạm lạnh lẽo của thành phố. Nhưng chỉ được chốc lát, viện bào tàng trống rỗng và những bức tranh quá tệ hại của nó đẩy chúng tôi tới một nỗi buồn còn thê lương hơn so với nỗi buồn Istanbul. Giờ đây mấy nhân viên trông coi viện bảo tàng đã để ý tới chúng tôi, họ theo chúng tôi từ phòng này qua phòng khác, điều này càng làm tăng thêm sự căng thẳng giữa chúng tôi, và chúng tôi cũng chấm dứt cái thú hôn nhau ở viện bảo tàng.
Nhưng liền ngay sau đó, chúng tôi lại rơi vào một thói quen suốt những ngày không vui tiếp theo. Chúng tôi trình thẻ sinh viên cho hai ông già trông coi viện bảo tàng, những người, giống như mọi nhân viên trông coi tại các viện bảo tàng ở Istanbul, luôn nhìn chúng tôi bằng cặp mắt nghi ngờ, như muốn hỏi, Mấy người có thể muốn xem cái gì ở một nơi thế này? Với một chút giả lả, chúng tôi sẽ hỏi han họ một hai câu, trước khi đi thẳng tới nơi trưng bày những bức tranh nho nhỏ của Bonnard hoặc những bức nhỏ xíu của Matisse. Thành kính thì thầm tên của họ, chúng tôi lướt qua thật nhanh những bức tranh chán ngấy của họa sĩ hàn lâm Thổ Nhĩ Kỳ, đọc tên những vị thầy Tây phương mà họ đã mô phỏng: Cézanne, Léger, Picasso. Điều làm chúng tôi mất hết ảo tưởng không phải là chuyện những họa sĩ này, hầu hết tốt nghiệp trường quân sự và học tại Âu châu, tự cho phép họ chịu ảnh hưởng từ các nghệ sĩ Tây phương, mà ở chỗ họ nắm bắt được quá ít cảm giác, sắc thái, và linh hồn thành phố, một thành phố nơi chúng tôi đã từng lang thang, vừa yêu đắm đuối vừa lạnh lùng.
Nhưng lý do chính yếu khiến chúng tôi tới tòa nhà này, nguyên được xây dựng làm cung điện Dolmabahçe cho thái tử và chỉ cách căn phòng nơi Atatürk đã nằm chết vài bước chân – chỉ nội ý nghĩ chúng tôi đang hôn nhau ngay nơi chốn đó, là đủ cho cả hai chúng tôi nổi da gà – không phải bảo tàng viện vắng vẻ, tiện lợi, cũng không phải sự huy hoàng Ottoman của trần nhà cao vời vợi và những bao lơn bằng sắt tuyệt vời kia làm chúng tôi tươi mát trở lại sau khi trở về từ sự nghèo khổ gây mệt mỏi của Istanbul, cũng không phải vì những khung cảnh Bosphorus từ những khung cửa sổ rộng kia nhìn ra còn đẹp hơn nhiều so với những bức tranh treo trên tường; điều làm chúng tôi quay trở lại đây mãi là bức tranh yêu thích của chúng tôi.
Đó là bức tranh Ngườiđànbànằm của Halil Pasha. Vào lần gặp đầu tiên sau lần rủ nhau đi uống trà ở hành lang khách sạn Hilton, chúng tôi bỏ qua tất cả những phòng tranh tại viện bảo tàng, đến thẳng nơi treo bức họa nói trên; lần đầu tiên ngắm bức tranh tôi đã kinh ngạc nhận ra người mẫu trong tranh, một phụ nữ trẻ đã đá bỏ đôi giày để nằm dài trên một cái đi văng màu xanh và buồn bã nhìn người họa sĩ (người chồng?), dùng một cánh tay thay cho gối giống như người mẫu của tôi vẫn thường làm như vậy rất nhiều lần. Nhưng không phải chỉ sự tương tự lạ lùng này thu hút tôi tới với bức tranh; trong lần đầu chúng tôi viếng thăm phòng tranh nhỏ này, nơi có treo bức tranh, cô người mẫu trong tranh đã chăm chú nhìn hai chúng tôi hôn nhau. Bất cứ khi nào nghe bước chân của một ông gác dan già luôn tỏ ra nghi ngờ trên sàn gỗ là hai chúng tôi liền rời nhau, ngồi thẳng người và lao vào một cuộc tranh luận đầy nghiêm túc về cô người mẫu trong tranh, bởi vậy, chúng tôi rất rành về mọi chi tiết của bức họa. Thêm vào đó là bất cứ những gì chúng tôi biết về họa sĩ Halil Pasha qua bách khoa toàn thư.
“Anh tin là hai chân cô gái rất lạnh, sau khi mặt trời lặn,“ tôi nói.
“Em có thêm tin buồn,“ người yêu của tôi nói; mỗi lần nhìn bức tranh tôi lại thấy nàng giống cô người mẫu ở trong đó hơn. “Mẹ em đã kiếm bà mối rồi. Mẹ em muốn em gặp bà ta.“
“Em sẽ gặp chứ?“
“Em thấy thật kỳ cục. Anh chàng mà bà ta giới thiệu nghe nói học ở Mỹ, và là con trai của một ai đó mà em cũng không biết nữa.“ Và bằng một giọng đùa cợt, nàng nói nhỏ cho tôi nghe tên của anh chàng nhà giàu này.
“Nhưng gia đình em giàu gấp mười lần gia đình anh ta.“
“Anh không hiểu sao? Họ làm như vậy là để tách em ra khỏi anh.“
“Như vậy là em sẽ có mặt tại bữa uống cà phê, khi bà mối tới nhà em?“
“Chuyện đó đâu quan trọng. Em không muốn gây phiền hà cho gia đình.“
“Tụi mình tới Cihangir đi, “ tôi nói. “Anh muốn vẽ một bức tranh khác về em, một bức Người đàn bà nằm khác. Anh muốn hôn em, hôn em.“
Người yêu của tôi đã dần dà nhận ra những ám ảnh của tôi và bắt đầu tỏ ra sợ hãi chúng. Nàng cố gắng lái câu chuyện qua hướng khác, tới vấn đề đang làm khổ cả hai chúng tôi. “Cha em rất không thích vì anh cứ muốn trở thành họa sĩ,“ nàng nói. “Anh sẽ trở thành một họa sĩ nghèo say xỉn, còn em sẽ trở thành cô người mẫu khỏa thân của anh… Đó là điều cha em sợ nhất.“
Nàng tính cười, nhưng không thể. Nghe tiếng chân người gác dan già nện thình thình trên sàn gỗ, chúng tôi quay lại nhìn, theo thói quen, mặc dù không hôn nhau, và trở lại với đề tài Người đàn bà nằm. Nhưng tôi thực sự muốn hỏi nàng, Tại sao cha em muốn biết thứ nghề nghiệp gì đang chờ đợi bất cứ một anh con trai nào đến nhà xin được đưa cô con gái của ông “đi ra ngoài“ (“đi ra ngoài“ là một thuật ngữ được ưa dùng tại Thổ Nhĩ Kỳ vào thời kỳ này), và khi nào ông muốn gả chồng cho cô con gái? Tôi cũng muốn nói, Bảo với cha em là anh đang học để trở thành kiến trúc sư! Nhưng ngay cả khi chiến đấu nhằm giải tỏa những sợ hãi của ông bố vợ tương lai, tôi cũng biết rõ rằng làm như vậy là tự kết án mình trở thành một thứ nghệ sĩ chỉ vào trong dịp cuối tuần mà thôi, kể từ lúc này. Mỗi lần kêu nàng trở về căn hộ của tôi ở Cihangir – điều này liên tục xảy ra trong nhiều tuần lễ – và nàng từ chối, là mỗi lần cái đầu của tôi mất bình tĩnh, và tôi chỉ muốn la lên, Nhưng, là nghệ sĩ thì có gì sai trái? Nhưng các căn phòng trống của tòa nhà đầy vẻ phô trương này – được xây dựng cho thái tử và giờ đây là viện bảo tàng đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ về Hội họa và Điêu khắc – cũng như những bức tranh tệ hại treo trên tường đã là một câu trả lời quá đầy đủ. Vừa mới đọc xong một cuốn sách về Halil Pasha, tôi biết ông là một người lính, ông không sao bán được bức tranh nào trong suốt nhiều năm, thành thử ông và bà vợ buồn bã, cũng là người mẫu, phải sống trong doanh trại quân đội, ăn những bữa ăn thanh đạm tại căng tin của trại.
Trong lần gặp gỡ sau đó, tôi cố làm nàng vui, chỉ nàng coi mấy bức họa uy nghi của Hoàng tử Abdülmecit (Goethe ở Hậu cung, Beethoven ở Hậu cung) để nàng cười. Và rồi tôi đề nghị, “Chúng ta tới Cihangir nhé?“ mặc dù đã tự hứa với mình không bao giờ đề nghị chuyện đó với nàng nữa. Và chúng tôi cầm tay nhau, cả hai cùng im lặng. “Anh sẽ bắt cóc em, em chịu không?“ tôi hỏi nàng, mượn bộ mặt trong một phim vừa coi.
Trong một lần gặp gỡ sau đó, rất khó khăn để hẹn hò, vì không làm sao nói chuyện qua điện thoại, khi chúng tôi ngồi trong viện bảo tàng nhìn bức họa Người đàn bà nằm, cô người mẫu xinh đẹp và buồn bã của tôi nói với tôi trong khi nước mắt ràn rụa trên má, rằng cha nàng, tuy hở ra là đấm đá mấy đứa em trai của nàng, nhưng lại thương nàng đến mức bịnh hoạn; ông ghen điên khùng và nàng rất sợ cha; cùng lúc, nàng thương cha nàng vô cùng. Nhưng bây giờ nàng nhận ra nàng thương tôi còn nhiều hơn thương cha nàng, và trong khoảng thời gian bảy giây đồng hồ trước khi ông gác dan già tới chỗ chúng tôi đang ngồi, chúng tôi hôn nhau một cách say mê, thắm thiết, buông thả… như trước đây chúng tôi chưa từng biết đến. Trong khi hôn nhau, chúng tôi nâng niu bộ mặt của nhau, như thể chúng làm bằng thứ đồ sứ mong manh.
Phu nhân của họa sĩ Halil Pasha từ trong bức tranh buồn rầu nhìn hai đứa chúng tôi, và khi người gác dan xuất hiện ở cửa, nàng ra lệnh, “Anh bắt cóc em đi.“
“Anh sẽ bắt cóc em.“
Tôi có một tài khoản ngân hàng đã mở được mấy năm, trong có số tiền để dành, từ trợ cấp bà tôi cho tôi; tôi cũng sở hữu một phần tư một cửa tiệm ở đại lộ Rumeli – phần này tôi được hưởng sau những đấu đá giữa cha và mẹ – ngoài ra tôi cũng còn sở hữu một ít chứng khoán, nhưng tôi cũng chẳng biết chúng ở đâu. Nếu tôi xoay xở sao cho dịch xong một cuốn tiểu thuyết cũ của Graham Greene trong vòng hai tuần lễ, tôi có thể mang tới cho một nhà xuất bản là bạn của Nuri, bạn tôi (hết còn bị cảnh sát truy nã); theo ước lượng của tôi, tiền dịch sách có thể trả trước hai tháng tiền mướn nhà, một căn hộ nhỏ giống như cái studio của tôi ở Cihangir, và sống ở đó với cô người mẫu xinh đẹp của tôi. Hay có thể sau khi tôi bắt cóc nàng, mẹ tôi (gần đây mẹ hay hỏi tại sao trông tôi bấn loạn đến vậy) sẽ thương hại cả hai đứa chúng tôi, và cho chúng tôi căn hộ ở Cihangir.
Sau một tuần lễ suy nghĩ về tất cả những tình huống có thể xảy ra, một cách thật là quyết tâm, chẳng thua gì một đứa trẻ lên kế hoạch mình sau này sẽ trở thành một người lính cứu hỏa, chúng tôi hẹn gặp nhau tại Taksim, nhưng đây là lần đầu tiên nàng không tới chỗ hẹn, mặc dù tôi chờ nàng một tiếng rưỡi đồng hồ. Tối ấy, tôi nghĩ nếu không tìm một người nào đó để than thở thì chắc là tôi sẽ phát điên lên mất, tôi gọi cho một số bạn học ở Học viện Robert đã lâu lắm tôi không gặp. Thích thú thấy tôi mê gái, đau khổ vì mê gái, và đang trong tình trạng bó tay, chẳng có ai có thể giúp đỡ được, cả đám cười hô hố khi thấy tôi say mèm, tại một mayhane ở Beyoğlu, nơi chúng cảnh cáo, khoan nói chuyện cưới một cô bé vị thành niên không có sự bằng lòng của bố cô ta, chỉ cần mày sống cùng cô gái trong một căn nhà là đã đủ để bị tống vô tù rồi; và rồi, thấy tôi vẫn tiếp tục lải nhải toàn những chuyện trời ơi đất hỡi, đám bạn hỏi, làm sao tôi ước mong sau này trở thành nghệ sĩ nếu bỏ học và đi cày nuôi vợ – mặc họ nói gì thì nói, tôi cũng chẳng thấy bực mình – và sau cùng, trong tinh thần bạn bè, một đứa trong đám bạn giúi cho tôi chiếc chìa khóa một căn hộ nơi tôi có thể nằm ở đó với “người đàn bà nằm“ bất cứ khi nào tôi muốn.
Sau hai lần đợi ở mãi tít phía xa, bên ngoài cổng trường Dame de Sion, thật đông người vào giờ tan học, tôi bắt cóc được cô nữ sinh. Tôi hứa với nàng, nếu chịu đi cùng với tôi tới căn hộ của bạn tôi (tôi đã đến ngó qua và dọn dẹp chút ít), thì sẽ chẳng còn ai có thể làm phiền chúng tôi nữa. Sau cùng nàng cũng chịu nghe theo. Như sau đó tôi được biết, căn hộ nói trên đúng là một garçonnière34, không phải chỉ của thằng bạn chu đáo ở Học viện Robert của tôi, mà còn của cả ông bố hắn nữa, và tôi biết là Bông Hồng Đen sẽ chẳng bao giờ nằm dài trên đi văng, làm người mẫu cho tôi vẽ tranh, dù chỉ để chúng tôi cảm thấy thoải mái hơn. Căn phòng có một chiếc giường lớn, và những đồ đạc độc nhất còn lại là tấm lịch của một ngân hàng nào đó treo trên tường và một giá sách, nơi ở giữa hai chai Johnny Walker là đầy đủ năm mươi hai tập của bộ EncyclopediaBritannica, trên cái giường đó chúng tôi làm tình với nhau ba lần, buồn thảm và giận dữ. Khi tôi nhận ra nàng yêu tôi nhiều hơn là tôi tưởng, khi tôi nhìn thấy nàng rúng động đến như thế nào mỗi lần chúng tôi làm tình, khi tôi thấy nàng dễ dàng và thường xuyên bật khóc nức nở, dạ dày của tôi mỗi lúc một quặn đau thêm, nhưng khi cố gắng ngăn cản điều đó tôi lại thấy càng tuyệt vọng hơn. Lần gặp nào nàng cũng nói về chuyện cha nàng tính cho nàng đi trượt tuyết tại Thụy Sĩ trong kỳ nghỉ tháng Hai, và sau đó cho nàng vô học tại một ngôi trường kỳ dị, toàn dân nhà giàu Ả Rập và đám Mẽo dở hơi. Giọng hốt hoảng của nàng khiến tôi tin nàng, nhưng khi tôi cố làm cho nàng vui bằng cách bắt chước một ngôi sao điện ảnh Thổ đóng vai tay anh chị hứa hẹn với người yêu sẽ bắt cóc nàng, và nhìn thấy niềm hy vọng ở trong đôi mắt người yêu, tôi cũng tin cả vào chính mình.
Vào đầu tháng Hai, trong lần gặp cuối trước kỳ nghỉ hè của trường học, để xua đi không khí ảm đạm về một tai họa sắp sửa xảy ra, và cũng để cảm ơn người bạn đã đưa cho tôi chiếc chìa khóa sử dụng căn nhà làm tổ uyên ương, chúng tôi mời anh ta đến chơi. Tối hôm ấy còn có một số bạn học khác, và đó là lần đầu tiên đám bạn tôi được diện kiến Bông Hồng Đen; do đám bạn học mỗi đứa gây ra nỗi nhức nhối ở một phần khác nhau của thân thể tôi, tôi có lý do để nhớ tại sao chẳng bao giờ tôi muốn trộn lẫn đám bạn này với nhau, như thể là theo bản năng mách bảo. Mọi chuyện kể như hỏng ngay từ phút đầu tiên Bông Hồng Đen gặp họ. Cố tìm cách bắt chuyện, họ đem tôi ra làm đầu trò, nhưng nàng lảng ra; sau đó, để làm dịu tình hình, nàng gia nhập những mẩu chuyện hài, những chuyện này nếu nghe vào lúc khác thì cũng được thôi, nhưng vào lúc này thì thật là sượng. Khi được hỏi về cha mẹ, họ là ai, và họ làm gì, hoàn cảnh ra sao, giàu hay nghèo, nàng cắt cái bụp, như muốn nói thẳng, tôi rất ghét những câu hỏi này, và rất ghét nói về những chuyện đó, cả buổi tiệc còn lại, ngoại trừ những lúc nhìn ra vịnh Bosphorus từ quán Bebek, hay tham gia những câu chuyện về đá banh, về một vài nhãn hàng, khoảnh khắc mà nàng cảm thấy dễ chịu nhất của cả buổi tối là khi chúng tôi ngừng tại địa điểm hẹp nhất của Bosphorus, mũi Aşiyan, để ngắm một tòa biệt thự bằng gỗ đang cháy rực ở phía bên kia Bosphorus.
Đó là một trong những yalı đẹp nhất ở Kandilli, rất gần mũi đất, và để nhìn rõ hơn tôi ra khỏi xe. Người yêu của tôi quá chán cảnh mấy đấng bạn của tôi hò reo nhìn ánh lửa thiêu rụi tòa biệt thự bằng gỗ, nàng đến đứng cạnh tôi, và hai chúng tôi cầm tay nhau. Để tránh những chiếc xe hơi và đám đông người tụ lại uống trà và để có một cái nhìn thật đẹp đám cháy bên kia vịnh, một trong những biệt thự bằng gỗ sau cùng của triều đại Ottoman, chúng tôi đi bộ tới mép phía bên kia của khu Rumelihisarı. Tôi kể nàng nghe, khi học trung học, tôi thường trốn lớp và nhảy lên phà, qua bờ phía bên kia của con vịnh và lang thang, thám hiểm những con phố.
Đứng trước một cái nghĩa địa nhỏ, trong đêm tối lạnh buốt, cảm thấy những dòng nước của con vịnh Bosphorus chạy rần rần trong xương tủy của cả hai chúng tôi, nàng thầm thì, nàng yêu tôi biết bao, và tôi nói tôi có thể làm bất cứ chuyện gì vì nàng, và tôi ôm nàng chặt hết sức lực của tôi. Chúng tôi hôn nhau; mỗi lần tạm ngưng để hé mắt nhìn, tôi lại thấy màu vàng của ngọn lửa từ phía bên kia vịnh bập bùng trên làn da mịn màng của nàng.
Trên đường về, chúng tôi ngồi ghế sau, cầm tay nhau, chẳng nói một lời nào. Khi tới nhà nàng, nàng chạy vội tới cửa như một đứa trẻ. Và đó là lần sau cùng tôi nhìn thấy nàng. Nàng không xuất hiện trong lần hẹn sau đó.
Ba tuần lễ sau, khi kỳ nghỉ đã kết thúc, tựu trường trở lại, tôi lò mò tới cổng trường, đứng từ xa, nhìn học sinh ùa ra khỏi trường, nhìn từng người một để chờ Bông Hồng Đen xuất hiện. Mười ngày sau đó, tôi biết là vô ích, phải chấm dứt chuyện rình mò nơi cổng trường, nhưng mỗi lần tới giờ tan trường là đôi chân của tôi lại mò tới, và tôi cứ tiếp tục đứng nhìn cho đến khi đám đông tan hết. Một bữa, đứa em trai lớn nhất, và cũng là đứa mà Bông Hồng Đen cưng nhất trong số mấy đứa em trai, rời đám đông, tới gặp tôi, nói Bông Hồng Đen gửi lời hỏi thăm tôi từ Thụy Sĩ, cùng lúc đưa tôi một lá thư. Tôi đọc thư khi đứng trong một cửa hàng bán bánh ngọt, vừa đọc vừa hút thuốc lá. Trong thư, nàng nói với tôi, nàng rất hạnh phúc với ngôi trường mới của nàng, và nàng nhớ tôi, nhớ Istanbul rất nhiều.
Tôi viết cho nàng chín lá thư thật dài, bảy lá thư tôi bỏ vô phong bì, và năm trong số đó, tôi gửi bưu điện. Tôi không hề nhận được thư trả lời của nàng.